Top 15 # Soạn Văn Bản 11 Bài Lẽ Ghét Thương Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Văn 11 Bài: Lẽ Ghét Thương

Soạn văn 11 bài: Lẽ ghét thương

Soạn văn lớp 11 ngắn gọn

VnDoc mời các bạn và thầy cô tham khao tài liệu , nội dung bài soạn rất ngắn gọn sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 học tốt hơn môn Ngữ văn. Mời thầy cô và các bạn học sinh tham khảo.

Soạn văn lớp 11 bài Lẽ ghét thương

I. Vài nét về tác phẩm

1. Tác phẩm Lục Vân Tiên

– Hoàn cảnh sáng tác: Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX.

– Thể loại: Truyện thơ Nôm bác học nhưng mang nhiều tính dân gian.

– Nội dung: Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác, nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp, ở đó mối quan hệ giữa con người với con người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.

2. Đoạn trích Ghét lẽ thương là đoạn thơ trích từ câu 473 đến câu 504 của truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Từ Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

– Những đời vua mà ông Quán ghét: đời Kiệt, Trụ, đời U, Lệ, đời Ngũ bá thời Xuân Thu, đời thúc quý.

→ Tất cả các triều đại được nhắc đến trong lời ông Quán đều có một điểm chung, đó là sự suy tàn. Những người đứng đầu nhà nước thì say đắm trong tửu sắc, không chăm lo đến đời sống nhân dân.

– Những lẽ thương mà ông Quán hướng đến: đức thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đồng Tử, người Nguyên Lượng, ông Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc.

→ Đây đều là những người có tài, có đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân nhưng không đạt được sở nguyện của mình. Những con người này đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu, bởi thế tình thương ở đây chính niềm cảm thông sâu sắc từ tấm lòng của nhà thơ.

Câu 2 (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp đối nghĩa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương…) để qua đó giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả. Với nhà thơ, ghét và thương rành rọt, không lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng giúp tăng thêm cường độ cảm xúc trong: yêu thương và căm ghét đều đạt đến sự tột cùng, mãnh liệt.

Câu 3 (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Câu thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Thương và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít với nhau trong tâm hồn nhà thơ. Tình cảm thương, ghét cứ đan xen nối tiếp nhau, hòa cùng một nhịp với cuộc đời, với nhân dân.

II. Luyện tập

(trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Theo anh (chị) …

Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của đoạn trích là câu:

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Bởi thương và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời trong tâm hồn nhà thơ. Bởi càng thương thì càng ghét. Tình cảm ghét và thương cứ đan xen, nối tiếp nhau. Ghét suy cho cùng cũng chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương.

Soạn Văn Lớp 11: Lẽ Ghét Thương

Soạn văn lớp 11 tập 1: Lẽ ghét thương. Câu 2: Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp từ đối nghĩa ghét – thương

Câu 1:

– Những điều ông Quán ghét: 10 câu thơ trong đoạn trích nói về lẽ ghét. Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương gây ra nhiều mối rắc rối, Ngũ Bá chia rẽ, đổ nát, sớm đầu tối đánh … Điểm chung của các vua chúa được nhắc đến: ăn chơi, hoang dâm vô độ, tranh quyền, đoạt lợi, không quan tâm đến chính sự đang rối ren, không nghĩ đến đời sống lầm than cực nhọc của dân. Căn nguyên của cái ghét ở đây là do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm cho nhân dân sa hầm sẩy hang, chịu lầm than, nhọc nhằn…

– Lẽ thương của ông Quán: gồm 14 câu, nói đến những bậc hiền tài phải chịu lận đận, không thỏa được ước nguyện giúp đời như: Khổng Tử, Nhan Uyên, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ, … đều là những trí thức nho sĩ có tài, có đức, ngay thẳng nhưng không gặp thời. Từ chỗ tiếc thương cho những bậc tài trí, cũng là tiếc cho đời, Nguyễn Đình Chiều tìm thấy bóng dáng mình trong đó: mơ ước lập thân để giúp đời nhưng lại gặp nhiều bất hạnh.

Câu 2:

Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp từ đối nghĩa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt. (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương; ghét ghét – thương thương; lại ghét – lại thương). Phép lặp cũng như sự vận dụng linh hoạt hai từ ghét – thương đã giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả. Trong trái tim tác giả, ghét và thương rành rọt, không mập mờ, lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng, đều hết sức nồng nhiệt.

Câu 3:

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

LUYỆN TẬP

Trong đoạn trích có câu “Vì chưng hay ghét cũng vì hay thương” đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn. Bởi thương yêu và căm ghét có mối quan hệ khăng khít với nhau. Càng xót xa trước cành nhân dân bị lầm than, thương những người tài hoa bị vùi dập. Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét những kẻ hại dân hại nước. Trong trái tim mênh mông của nhà thơ yêu ghét đều phân minh rõ ràng.

Sachbaitap.com

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Trang 45 Sgk Ngữ Văn 11

Soạn bài Lẽ ghét thương trang 45 SGK Ngữ Văn 11

1. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất tại Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu khá lận đận.

SOẠN BÀI KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) sinh tại làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, mất tại Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu khá lận đận.

Lớn lên và theo đuổi nghiệp khoa cử vào lúc xã hội loạn lạc, đất nước rơi vào hoạ xâm lăng, bản thân lại mù loà từ năm 25 tuổi. Bỏ dở nghiệp thi cử, ông chuyển sang học thuốc, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh và mở trường dạy học.

2. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ, được viết dưới hình thức thơ lục bát. Truyện Nôm là thể loại văn học khá phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX. Đó là những thành tựu đáng tự hào của nền văn học dân tộc.

3. Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến câu 504 của tác phẩm) là lời của một nhân vật trong truyện, đó là nhân vật ông Quán trong cuộc đàm đạo giữa ông và các nho sĩ trẻ tuổi. Từ “ghét” “thương” ở đây cũng không đơn giản là chỉ tình cảm đối với một ai đó. Chuyện ghét thương được nhìn nhận bằng quyền lợi của nhân dân. Quan điểm yêu ghét của ông Quán chính là quan điểm của tác giả, nhà thơ, nhà văn, ông đồ Nguyễn Đình Chiểu.

II. TÓM TẮT TRUYỆN

Nhân vật chính của tác phẩm là Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn. Cháng đã đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga. Nguyệt Nga nguyện lấy chàng để trả nghĩa. Trên đường đi thi, Lục Vân Tiên nghe tin mẹ mất, chàng phải quay về chịu tang. Chàng khóc thương mẹ đến mà cả hai mắt. Chàng bị Trịnh Hâm ghen ghét đố kị, lừa đẩy chàng xuống sông nhưng chàng được cứu thoát. Võ Thể Loan đã hứa gả con gái cho chàng nay thấy chàng bị mù liền trở mặt, đẩy chàng vào hang sâu. Chàng đã đựoc thần Phật cứu giúp, mắt sáng trở lại, rồi đỗ trạng nguyên, được cử đi đánh giặc Ô Qua. Kiều Nguyệt Nga quyết chung thuỷ với Vân Tiên. Thái sư bắt nàng đi cống cho giặc. Nàng nhảy xuống sông tự vẫn ôm theo bức hình Vân Tiên. Nàng được cứu sống, lại bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, nàng bỏ trốn. Tác phẩm kết thúc có hậu, Vân Tiên thắng trận trở về gặp Nguyệt Nga, hai người kết nghĩa vợ chồng.

III. RÈN KĨ NĂNG

1. Vì chưng hay ghét cũng là hay thương ý nói: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.

2. Ông Quán ghét những kẻ đã bày ra “chuyện tầm phào”. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác: Kiệt Trụ mê dâm, U lệ đa đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng. Hai nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử phong kiến Trung Hoa thời cổ đại. Những tên vua tàn ác mà tên tuổi đều gắn với những giai thoại về sự độc ác khôn cùng. Tiếp đến là hai thời kì đen tối của lịch sử Trung Hoa. Kẻ cầm quyền tranh giành quyền lực đẩy nhân dân vào nạn binh đao. Kẻ thì ăn chơi, hưởng thụ sa đoạ, người thì say sưa tranh giành quyền lục nhưng tất cả bọn chúng đều gây ra một hậu quả chung là đẩy nhân dân vào cuộc sống vô cùng khổ cực. Ông Quá ghét những kẻ làm nhân dân phải chịu khổ cực. Cả bốn câu ông đều nhắc đến dân, nhắc đến những hậu quả mà nhân dân lao động phải chịu: dân “sa sầm sẩy hang”, dân chịu “lầm than”, dân “nhọc nhằn” và “lằng hằng rối dân”. Đối tượng ghét là tất cả những gì có hại cho nhân dân. Mức độ ghét cũng rất dứt khoát, rõ ràng và quyết liệt, thể hiện thái độ không khoan nhượng, không dung tha đối với điều xấu.

3. Đối tượng “thương” là nhân vật cụ thể, những bậc hiền tài một lòng giúp đời, giúp dân. Đó là: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ đều là những con người nổi tiếng về tài và đức song lại gặp toàn chuyện không may mắn. Họ đều là người có nhân cách cao cả, đều hết lòng thương yêu dân chúng, sống trọn đạo bề tôi, giữ vững phẩm cách của nhà Nho. Đối tượng “thương” đều là những người tài đức vẹn toàn. Thái độ thương ở đây bao gồm cả sự cảm thông, trân trọng, kính phục của tác giả và cũng là sự tự thương mình của ông Đồ Chiểu.

4. Nhà thơ đã mượn chuyện bàn luận về ghét thương, về lịch sử để thể hiện thái độ của mình đối với cuộc đời. Việc ghét thương gắn chặt với quyền lợi của nhân dân lao động. Việc dẫn toàn những chuyện của sử sách Trung Quốc có ngụ ý nói về xã hội Việt Nam thời nhà Nguyễn. Những chuyện ghét thương ấy là bóng dáng hiện thực xã hội mà tác giả phải chứng kiến. Dùng chuyện lịch sử để nói chuyện hiện thực là cách để tư tưởng và tâm sự của tác giả có thể tự do giãi bày.

5. Tác giả đã sử dụng rất thành công các phương tiện ngôn ngữ như điệp từ, từ láy, thành ngữ, tiểu đối để thể hiện thái độ ghét thương rất rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt của mình. Đặc biệt nhà thơ đã sử dụng rất hiệu quả biện pháp nghệ thuật điệp từ ghét, thương và các từ ngữ biểu cảm như: ghét cay ghét đắng, sa sầm sẩy hang, lằng nhằng rối dân, phui pha, ngùi ngùi, …

IV. LUYỆN TẬP ĐỀ BÀI: Theo anh (chị), câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn? Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.

Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tướng và tình cảm của cả đoạn trích là câu:

“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”

Yêu và ghét là hai tình cám có mối quan hệ khăng khít không thê tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bới thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hoà cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ahct cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao lư tưởng và tình cảm của Nguyền Đình Chiêu vậy.

Đoạn thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà không hé khô khan, cứng nhắc, trái lại vẫn giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Những cảm xúc sâu sắc và nồng đượm đó xuất phát từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thư, từ một trái tim nặng trĩu tình đời, tình người tha thiết.

V. TƯ LIỆU THAM KHẢO

1. Về tác phẩm ( Truyện Lục Vân Tiên)

“Và cái trữ tình trong Lục Vân Tiên thật đáng mến, đáng yêu, một chất trữ tình đôn hậu mà không thiếu bề sâu sắc. Ta hãy thử lấy một ví dụ thôi, đó là chung quanh bức tượng của Nguyệt Nga vẽ Vân Tiên. Truyện Lục Vân Tiên sau khi mở đầu bằng một cảnh dân chạy giặc, thì bắt đầu ngay một câu chuyện tình giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên; cái chí tình của Nguyệt Nga, ngay những lúc đầu, đã làm cho người đọc cảm động. Việc Nguyệt Nga nhớ Vân Tiên, vẽ ra thành một bức tượng hình Vân Tiên, và từ đó không rời bức tượng nữa, là một điển hình ai ai cũng nhớ từ đó về sau, hễ có Nguyệt Nga là có bức tượng Vân Tiên, Nguyệt Nga tượng trưng cho sự chung tình, lòng chung thủy. Hình ảnh Nguyệt Nga rất trong trẻo, rất đáng quý mến; người con gái ấy thông minh, biết suy nghĩ, biết xử sự hợp nghĩa, hợp tình. Bức tượng Vân Tiên đã thành một điệp khúc trong truyện thơ. Khi bắt đầu vẽ tượng:

Làu làu một tấm lòng thành, Hóa ra một bức tượng hình Vân Tiên

Cái tình yêu muôn thuở của con người, khi thì nó hóa ra dệt gấm, như chức cẩm hồi văn của nàng Tô Huệ, khi thì nó ẩn trong tiếng đàn, như chuyện nàng Kiều, khi nó hóa thành những bài thơ như trong Tình sử, khi nó hóa thành một bức chân dung hồi kí như chuyện Kiều Nguyệt Nga.

Lục ông đến thăm Kiều công, cha của Nguyệt Nga, cho biết tin đồn vang là Vân Tiên đã chết. Nghe tin đó:

Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng, Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.

… Khi Nguyệt Nga được vớt lên, cùng vớt liền với bức tượng. Đến khi vào ở nhà Bùi Ông, không ở được, bởi con là “Bùi Kiệm máu dê”, phải trốn ra đi, thì cũng:

Dán trong vách phấn một tờ, Vai mang bức tượng kíp giờ ra đi.

Đến lúc tái hợp Vân Tiên- Nguyệt Nga cũng là nhờ bức tượng Vân Tiên:

Hỏi rằng bức ấy tượng chi, Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.

Như vậy, Nguyệt Nga với bức tượng là một điển hình của tình yêu chung thủy; tâm sự Nguyệt Nga, chung quanh Nguyệt Nga, đã làm nảy bao câu trữ tình đôn hậu và sâu sắc ở ngòi bút Đồ Chiểu”.

Xuân Diệu

( Mấy vấn đề về cuộc đời và thơ văn

Nguyễn Đình Chiểu (Tái bản).

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr.45-47)

2. Về đoạn trích

“Quán rằng: ghét việc tầm phào, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.”

Chính thái độ yêu ghét dứt khoát mãnh liệt ấy đã tạo cho truyện Lục Vân Tiên một tinh thần đấu tranh, một tinh thần phấn khởi lôi kéo người đọc…

… Thương và ghét đều vì nhân dân. Làm lợi cho dân thì thương, làm hại cho dân thì ghét:

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

… Nguyễn Đình Chiểu cũng đứng trên lập trường nhân nghĩa của nhân dân mà có một thái độ dứt khoát: yêu và ghét, “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”… Thái độ thật dứt khoát ấy được xây dựng trên một lý tưởng vững chắc bền bỉ, không gì lay chuyển nổi. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga tiêu biểu cho cái lý tưởng ấy. Trong truyện Lục Vân Tiên mỗi nhân vật chính diện đều theo đuổi một lý tưởng như vậy”.

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Sbt Ngữ Văn 11 Tập 1

Giải câu 1, 2, 3 trang 42 SBT Ngữ văn 11 tập 1. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về cái nguồn mạch trữ tình ẩn chứa trong đoạn thơ đạo lí mang nặng phong cách cổ điển này?

1. (Bài tập trang 48, SGK)

Anh (chị) hãy đọc chú thích, tìm điểm chung giữa những đời vua mà ông Quán ghét và giữa những con người mà ông Quán thương. Từ đó hãy nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu.

Trả lời:

– Đọc lại đoạn trích, tìm một hoặc hai câu thơ mà anh (chị) cho là hay nhất, thể hiện được rõ nhất tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu và đặc trưng bút pháp trữ tình của ông. Mỗi người có thể có một sự lựa chọn riêng, không nhất thiết phải giống nhau.

– Phân tích câu thơ đó theo sự cảm nhận riêng của anh (chị).

2. Qua đoạn trích Lẽ ghét thương, anh (chị) hiểu về nhân vật ông Quán như thế nào ? Vì sao nhân vật này chỉ xuất hiện qua ít dòng thơ mà lại được nhân dân ta, đặc biệt là người dân Nam Bộ, yêu thích đến thế ?

Trả lời:

Để giải bài tập này, nên xem kĩ Tiểu dẫn trong SGK và nhớ lại nội dung tóm tắt truyện đã học ở lớp 9 có nhắc tới nhân vật ông Quán. Chú ý mấy vấn đề sau :

– Nhân vật ông Quán xuất hiện ít (chỉ hai lần : một lần trong quán rượu và một lần ông đuổi theo Lục Vân Tiên khi biết chàng gặp gia biến để cho mấy viên thuốc phòng khi đói lòng), nhưng để lại nhiều ấn tượng cho người đọc.

– Nhân dân ta, đặc biệt là người dân Nam Bộ, yêu nhân vật này là vì sao ? (Lưu ý: Người dân Việt Nam ở vùng đất mới Nam Bộ, do hoàn cảnh và điều kiện sống, đã hình thành những nét tính cách riêng : sống phóng khoáng, hồn nhiên, trọng điều nghĩa, ghét gian tà, tính tình thẳng thắn, bộc trực, nồng nhiệt. Họ có thể tìm thấy những gì đồng điệu qua tư tưởng, tình cảm, tính cách của nhân vật ông Quán ? Hãy phân tích một vài dẫn chứng tiêu biểu.)

Có thể tham khảo bài viết của Giáo sư Trần Văn Giàu (Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu ?) trong Nguyễn Đình Chiểu – Tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973).

– Nhân vật ông Quán được xây dựng theo kiểu sáng tác nào và nhằm thể hiện điều gì trong tư tưởng, tâm hồn tác giả ? Trong phạm vi kiểu sáng tác đó, tác giả có thành công hay không ? Vì sao ? (Lưu ý: ông Quán được giới thiệu thuộc tầng lớp bình dân, lao động, nhưng xuất hiện trong tác phẩm lại mang cốt cách của một nhà nho đi ở ẩn kinh sử đã từng. Đây có phải là sự non yếu về nghệ thuật không ? Dựa theo đặc điểm của kiểu sáng tác phổ biến trong văn học trung đại, hãy giải thích điều đó.)

3. Anh (chị) cảm nhận như thế nào về cái nguồn mạch trữ tình ẩn chứa trong đoạn thơ đạo lí mang nặng phong cách cổ điển này?

Trả lời:

Yêu cầu của bài tập nhằm khám phá cái nguồn mạch trữ tình – đạo đức (vốn được xem là một nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu) trong đoạn thơ trích.

a) – Đoạn thơ trích thuộc loại văn chương đạo lí rất phổ biến trong văn học trung đại. Nó trường tồn được với thời gian trước hết là do nó đáp ứng những vấn đề nhân sinh thiết yếu của thời đại, do cái tâm trong sáng, cao cả và nguồn cảm hứng đạo đức nồng nhiệt, chân thành của người cầm bút, rồi mới đến những yếu tố của nghệ thuật văn chương như thể loại, cấu tứ, ngôn từ,…

b) – Đoạn thơ trích Lẽ ghét thương mang tính chất triết luận về đạo đức, nhưng ngay từ khi ra đòi nó đã được nhân dân ta, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu thích và truyền bá rộng rãi qua những sinh hoạt văn hoá dân gian như kể thơ, nói thơ Vân Tiên.

Tổng hợp những kiến thức đã tiếp nhận được qua phần đọc – hiểu, hãy cảm nhận cái nguồn mạch trữ tình ẩn chứa trong đoạn thơ ở những điểm sau :

– Nội dung nhân văn của Lẽ ghét thương (nên đặt trong tương quan với bối cảnh thời đại).

– Cái tâm của tác giả và nguồn cảm xúc đạo đức sâu sắc, nồng đậm.

– Nghệ thuật thể hiện: cấu tứ, biện pháp tu từ,…

Bài tiếp theo