Top 10 # Soạn Văn 9 Bài Viết Số 2 Đề 4 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài: Viết Bài Tập Làm Văn Số 2 Lớp 9 Hay Nhất Đề 1

Trong bài tập làm văn số 2 lớp 9, các bạn có thể chọn một đề bài bất kì trong sách giáo khoa để viết bài văn tự sự. Với bài viết này, chúng tôi mang đến cho bạn bài tham khảo Viết bài tập làm văn số 2 lớp 9 đề số 1: Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày em về thăm trường cũ. Hãy viết thư cho một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó.

Bài làm

Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2019

Tùng Anh thân mến!

Không biết khi nhận được bức thư này, cậu có ngạc nhiên không? Tớ, Long béo đây! Phải lâu lắm rồi tớ mới viết thư lại cho cậu nhỉ? Từ hồi cậu chuyển về quê, không còn ở Hà Nội tấp nập và ồn ào, cậu và tớ mỗi người đều có cuộc sống riêng và bao nhiêu công việc cần phải hoàn thành. Chúng mình không còn thời gian để gửi thư hỏi thăm nhau nữa. Thế nhưng hôm nay, khi bất chợt về thăm ngôi trường cũ, tớ bỗng thấy xốn xang, lấy vội cây bút và viết một chút gì đó cho cậu ngay, để cảm xúc lúc này không bị trôi tuột đi mất!

Tùng Anh ạ, thực ra tớ không có ý định về thăm trường một mình thế này đâu! Chiều hôm nay, lúc tớ đi đón con gái của tớ, Hà My ấy, cậu nhớ không? Nó năm nay đã lên lớp 7 rồi, thì tớ bất chợt muốn vào nhìn ngắm lại ngôi trường năm xưa mà chúng mình gắn bó trong suốt 4 năm trời. Cậu có tưởng tượng được không, đã hai mươi năm rồi tớ mới về thăm lại trường mình đấy! Mọi thứ bây giờ khác lắm, tất cả đều khang trang, sạch đẹp và rất tiện nghi. Cổng trường không còn là chiếc cổng sắt hoen gỉ, kêu “két, két” mỗi khi kéo ra kéo vào như trước kia mà thay vào đó là một chiếc cổng to rộng hơn cùng với lớp sơn bóng màu xanh lam bóng mịn. Phía trên là dòng chữ khắc tên ngôi trường cũng đẹp không kém.

Sau những điều tớ vừa kể, hẳn là cậu cảm thấy trường mình đã thay đổi hết cả rồi phải không? Thế nhưng tớ phát hiện có một thứ nó vẫn ở đó, theo chân tụi mình cho đến tận bây giờ. Đó là cây phượng vĩ ở giữa sân. Hai mươi năm về trước, nó mới là một cái cây nhỏ, mới lớn được các bác lao công vun trồng. Vậy mà giờ đây, cây phượng vĩ đã được 20 tuổi rồi, sừng sững ở đó che bóng mát cho các bạn học sinh vui chơi. Nhưng đây vẫn chưa phải điều làm tớ xúc động nhất, cậu có tưởng tượng được không, tớ đã gặp lại cô Thao – hiệu trưởng trường mình ngày xưa đấy! Cô vẫn làm hiệu trưởng của trường, chỉ có điều khuôn mặt nay đã già đi trông thấy. Tớ bước đến hỏi cô:

– Em chào cô, em là Long béo, học khóa K01 ngày xưa đây, hôm nay em về thăm trường cũ, cô vẫn khỏe chứ ạ?

Ban đầu, cô còn ngờ ngợ không nhận ra nhưng sau một hồi suy nghĩ, cô vui vẻ nói:

– À,em có phải là Long béo hay chơi với Tùng Anh, 2 đứa nghịch ngợm nhất khối đó không?

Tớ cười trừ, “nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò” đúng thật là đáng nhớ

Tớ và cô trò chuyện thêm một lúc thì tớ phải trở về nhà, vậy là cuộc gặp gỡ kết thúc.

Tớ chúc cậu và gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc!

Bạn thân của cậu

Long

Nguyễn Minh Long

Soạn Văn 9: Viết Bài Tập Làm Văn Số 2

VIẾT BÀI TẬP LÀM VĂN số 2 - VĂN Tự Tự (Một sô' bài tham khảo) Đề 1. Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày em về thăm lại trường cũ. Em hãy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó. Buổi chiều hôm đó, cả nhà chúng tôi rộn ràng tiếng nói cười của bé Trâm. Nói chuyện huyên thuyên cả ngày về kết quả kì thi tốt nghiệp Tiểu học mà nó đạt được. Vậy là sắp tới, nó sẽ học ở ngôi trường cấp hai mà cách đây hơn 20 năm tôi đã học ở đó. Tôi sẽ cùng mẹ nó, chị họ của tôi, đưa nó đến trường vào ngày khai giảng. Đây là dịp để tôi trở lại thăm ngôi trường đã hơn 20 nãm xa cách. Ngày khai trường rồi cũng đến. Bé Trâm xúng xính trong bộ đồng phục, tóc thắt hai bím cùng mẹ và tôi đến trường. Tôi chợt nhớ đến ngày đầu tiên mẹ tôi dẫn tôi đến trường này. Hồi ấy, trên đường đi, tôi đã cố tưởng tượng ra một ngôi trường thật đẹp, thật rộng. Và giờ đây, cũng trên con đường này tôi một lần nữa cô' hình dung trường mình đã thay đổi như thế nào. Lòng tôi nôn nao một cảm giác vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm như một đứa trẻ ngày đầu đi học. Từ xa, chúng tôi đã nghe tiếng nhạc, tiếng trông rộn rã và cả những chùm bóng bay đủ màu sắc chào đón chúng các em học sinh đến trường. Cánh cổng dần dần mở ra trước mắt tôi. Hai bên là hàng rào sơn đen với giá hoa giấy thật vui mắt. Hàng rào đã thay cho bức tường cao màu vàng cũ kĩ ngày trước. Trường tôi giờ đẹp quá, thay đổi nhiều quá, tôi háo hức bước nhanh vào trong. Nhưng bé Trâm ghì chặt tay tôi, có lẽ ngôi trường quá rộng lớn so với suy nghĩ của nó cũng như sự bỡ ngỡ của tôi ngày trước. Chị tôi đang dỗ dành nó hệt như mẹ đã dỗ dành tôi. Tôi cúi xuống động viên nó và bảo đã từng học rất vui ở ngôi trường này và xem ra nó đã vững tin hơn trước. Chúng tôi rảo bước vào trong sân, nơi mà cách đây vài phút tôi còn cho là mình đã thuộc mọi ngóc ngách. Sân trường giờ là một thảm cỏ xanh um với các lôi đi rải sỏi trắng toả ra nhiều hướng. Tất cả học sinh và phụ huynh đã tập trung trong hội trường để dự lễ chứ không như hồi ấy chúng tôi xếp hàng trong sân. Lượng học sinh cũng đông hơn hồi trước rất nhiều. Tôi bước ra ngoài để đi dạo quanh trường. Mọi thứ đã thay đổi, thời gian thấm thoát đã hơn hai mươi năm rồi còn gì! Nhưng tôi phát hiện một thứ vẫn không hề thay đổi, đó là vườn hoa bán nguyệt với hàng liễu rủ hai bên. Kỉ niệm ngày xưa chợt ùa về. Ớ chiếc ghế đá dưới cành liễu, tôi, Trang và Thuỷ thường ngồi đây uống nước, ăn kem, rồi tám đủ thứ chuyện. Hay những buổi chiều chờ mẹ đến đón, hay những lần bàn tán kết quả thi, chúng tôi cũng đều ngồi đây. Còn nhiều, còn nhiều lắm những kỉ niệm của ba đứa chúng tôi ở vườn hoa này. Tự dưng tôi muôn gặp hai đứa nó quá! Chúng tôi dã không liên lạc với nhau hơn hai nãm rồi,... Đang miên man suy nghĩ, tôi chợt nhận ra căn phòng sáng choang, bàn ghế chật ních là căng-tin. Tôi thích chiếc tủ chất đầy quà vặt ngày xưa hơn. Tôi thích được chen lấn để mua nước, mua kẹo. Tôi thích tự tay mình chọn món này, món kia. Căng-tin của học trò thì phải bắt mắt, phải nhộn nhịp, vội vã mới thú vị, mới vui chứ! Lúc trước, trường tôi chỉ có khoảng mười lăm phòng học và không có lầu. Vì vậy chúng tôi không phải mang cặp nặng lên cầu thang. Ngày đó tôi rất tự hào về điểm này của trường mình. Còn bây giờ dãy lớp học được xây thêm hai tầng nữa, mong rằng bọn trẻ sau này không phải mang cặp nặng như trước. Các phòng học thật rộng, thoáng, được lắp cửa kính, máy lạnh, ti vi, máy chiếu thật hiện đại. Bàn ghế thì mỗi em học sinh một bộ. Tôi nghĩ, như thế thì cũng hơi buồn nhưng có lẽ các học sinh sẽ tập trung hơn trong giờ học. Đi dọc theo hành lang, tôi nhìn thấy nhiều tủ kính trưng bày sản phẩm của học sinh: từ những bức vẽ, tượng đất sét hay những chiếc ôtô, mặt nạ bằng cac-tông... Những chiếc mặt nạ ngộ nghĩnh làm tôi nhớ đến tiết Mĩ thuật hồi trước. Chúng tôi làm mặt nạ bằng những cái rổ tre, khi làm xong thì dùng dây treo lên khung cửa sổ trong rất vui mắt. Rồi tôi bắt gặp bức tranh vẽ cô giáo trong tà áo dài màu hồng làm tôi chợt nhớ đến cô Mai dạy văn tôi năm đó. Ngày ngày, cô bước lên bục giảng với tà áo dài màu hồng nhã nhặn. Cô đưa chúng tôi đến với những ngọn núi hùng vĩ, đến với cánh đồng lúa vàng óng, truyền cho chúng tôi lòng yêu cái đẹp, cái thiện. Tôi chợt nghĩ đên phòng học của tôi. Nói đến phòng học thì người ta chỉ nghĩ đến căn phòng với bảng đen phấn trắng và bàn ghế. Nhưng không ai viết bên trong nó chứa đựng hàng ngàn chuyện dở khóc dở cười của một "đại gia đình" siêu quậy chúng tôi. Nhiều kỉ niệm mà khi nhớ đến tôi lại phì cười, lòng cảm thấy phấn chấn, vui vẻ hẳn lên. Người ta thường nói "Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Hồi đó chúng tôi không đứa nào đồng ý với câu đó, ai nói như vậy là tôi cãi lại ngay vậy mà giờ tôi lại ước được mắng như thế. Thật là buồn cười! Tôi lững thững đi xuống sân. Khoảng sân này trông vắng quá vì cây phượng vĩ xum xuê năm xưa không còn nữa. Tôi còn nhớ những ngày cuôi năm lớp chín, đứa thì thơ thẩn nhặt hoa phượng rơi xếp thành bướm ép vào vở, có đứa còn đánh dấu lên thân cây làm "kỉ niệm". Dẫu biết rằng thời gian trôi đi là mãi mãi nhưng tôi vẫn mong một ngày mình được trở lại ngày xưa, làm cô học trò bé nhỏ, ngây thơ, vui khi được điểm mười, buồn khi bị điểm kém. Tôi muôn một lần nữa được học tập và vui chơi dưới mái trường yêu dấu. Áp bàn tay lên cửa kính, lên khoảng tường sơn trắng, một chút bâng khuâng nghẹn ngào dâng trào. Một cảm xúc mà ai cũng từng trải qua khi về thăm trường cũ. Tôi nghe rõ tiếng bạn bè của mình cười nói, tiếng thầy cô giảng bài âm vang, tiếng thước gõ, tiếng chuông reng,... Dẫu cho cảnh vật thay đổi nhưng tôi vẫn tìm thấy một chút gì đó thân quen, một bầu không khí dễ chịu, gần gũi. Tôi hít một hơi thật sâu và bước nhanh tới hội trường. "Tùng... tùng... tùng", tiếng trống khai trường rền vang. Bé Trâm xếp hàng vào lớp, nó vẫy tay chào tôi. Tôi chợt nhận ra mình đã là người lớn và nơi đây chỉ còn là một kỉ niệm mà trong đó tôi là kỉ niệm của chính mình. Kỉ niệm dù vui dù buồn cũng in dấu trong lòng mỗi chúng ta không phai. Dù không gặp lại thầy cô, bạn bè ngày hôm đó, dù có chút tiếc nuôi nhưng tôi đã có khoảng không gian để ôn lại kỉ niệm tuổi học trò, những khoảng khắc hồn nhiên, vui tươi nhất đời người. Tôi chợt nhận ra rằng tuổi học trò là kho báu quý giá nhất của mỗi người chúng ta. Văng vẳng bên tai tôi câu hát: "Về lại trường xưa với bao kỉ niệm..." (Nguyễn Khánh Linh) Đề 2. Kế lại một giấc mơ, trong đó em gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày. Bài 1. Ngày mười bôn tháng hai, tức hai mươi bảy Tết, mọi người đều nhộn nhịp đón Tết cổ truyền. Tại một ngôi nhà bình thường, gia đình tôi chuẩn bị kế hoạch ra Bắc. Thanh Hoá! Thanh Hoá! Thanh Hoá! - Mẹ tôi đang nổi "cơn tam bành". Cha con mây người thì suốt ngày Thanh Hoá! Tết nhất nghỉ có mấy bữa mà hết đòi đi Sa Pa đến đòi đi vịnh Hạ Long, giờ còn đòi đi Thanh Hoá! Tại sao phải đi Thanh Hoá? Tôi không trả lời ngay. Tôi nhìn mẹ một lúc: Con tưởng mẹ cũng muôn thăm mộ bà Hai nên con mới nói. Con cứ nghĩ là mẹ còn nhớ... Tôi quay đi, dắt theo chiếc xe đạp, chạy thẳng ra bờ sông. Trong khoảng khắc ấy, tự nhiên tôi cảm thấy sợ mẹ. Tôi không dám nhìn vào mắt mẹ. Tôi cũng không biết mình sẽ thấy gì trong đôi mắt ấy. Mẹ không gọi tôi lại. Như vậy có lẽ tốt hơn. Bờ sông hôm nay, như thường lệ, vắng tanh. Tôi nằm ra bãi cỏ rộng, êm ái quá. Vậy là đã mười năm trôi qua. Mười năm, một quãng thời gian đủ dài cho mọi thay đổi, một quãng thời gian đủ dài để xoa dịu nỗi đau mất mát, một quãng thời gian đủ dài để quên đi một con người, một người hàng xóm đã mãi mãi ra đi. Bà ơi!... Tôi nấc lên. Từ khoé mắt, hai hàng nước mắt nóng hổi thi nhau trào ra. Gió thổi từng cơn miên man, hoà quyện với cái lạnh, cái lạnh từ một nơi nào đó trong lòng tôi... Bé Thanh của bà sao lại nằm đây? Một giọng nói ấm áp, thân quen từ phía sau vọng lại làm tôi giật mình. Tôi quay phắt người lại. Bà Hai! Bà mặc một chiếc áo len màu nâu đã cũ. Bà đang dang đôi tay ra, chuẩn bị đón tôi vào lòng. Bà ơi! - Tôi nức nở sà vào lòng bà. Ngoan nào, ngoan nào! Bà ôm chặt lấy tôi, cánh tay gầy guộc của bà vòng quanh người tôi, làm tôi nhỏ lại, nhỏ lại như một đứa trẻ nam tuổi. Bé Thanh của bà đã lớn thế này rồi à! Bà không bế cháu được nữa rồi. Giọng bà ấm áp, mềm mại quấn lấy tôi, ấm áp. Bà ơi, cháu nhớ bà quá, sao đến bây giờ bà mới đến thăm cháu? Cháu nhớ bà lắm. Bà không nói gì, chỉ nhẹ nhàng vuốt ve tôi. Đôi bàn tay ram ráp của bà lau những giọt nước mắt còn đọng trong mắt tôi. Bà vẫn không thay đổi, vẫn cái dáng gầy gầy, làn da ngăm ngăm, đôi bàn tay to ram ráp của cuộc đời lam lũ. Trước đây, khi gia đình tôi còn ở trong ngôi nhà quân đội cấp cho ba tôi, bà Hai vẫn luôn chăm sóc tôi cũng như lũ trẻ trong xóm tôi khi ba mẹ đi vắng. Bà thường kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện thần kì của những yêu tinh tinh nghịch, những thiên thần vui tính... ở thế giới thần tiên. Bà luôn dặn chúng tôi phải ngoan ngoãn. Đứa nào cũng yêu thương bà như thể bà là bà ruột của chúng tôi vậy. Nhưng mười năm trước, trong một lần cùng về quê ăn Tết với con cái, bà đã không trở về nữa. Vậy mà bây giờ bà đang ở đây, đang ôm ghì lấy tôi, đang bao bọc tôi bằng hơi ấm của bà. Thật hạnh phúc biết bao! Nắng vàng trải dài trên thảm cỏ xanh mơn mởn. Nắng vui đùa nhảy múa trên mặt sông lấp lánh, gợn những con sóng dịu dàng uốn lượn mền mại. Tôi buông bà ra, gốì đầu vào lòng bà. Bà vuốt tóc tôi, âu yếm hỏi: Tôi ngập ngừng một lúc: Bây giờ thì cháu có bà ở đây rồi. Bà sẽ ở đây với cháu luôn chứ? Bà sẽ không bỏ cháu lại nữa chứ? Tôi ngước lên nhìn bà, ánh mắt tinh anh, hiền hậu của bà bỗng thoáng buồn. Bà không nhìn vào mắt tôi, bà hỏi: Cháu có nhớ hồi còn bé, bà thường kể cho cháu nghe những câu chuyện về các thiên thần đi hàn gắn vết thương của người khác không? Dạ nhớ. - Tôi lại dúi đầu vào lòng bà, đón chờ những câu chuyện kì diệu của bà. Thật ra, những thiên thần ấy còn giúp mang những tâm hồn xích lại gần nhau hơn. Nếu cháu yêu thương một ai đó, cháu luôn giữ được người đó trong trái tim và suy nghĩ, những thiên thần ấy sẽ giúp cho cháu gặp người ấy, dù người ấy ở rất xa cháu. Tôi không nói gì. Những lời nói của bà, bất giác làm tôi nhận ra rằng đây chỉ là một giấc mơ. Tôi đang mơ, mơ về bà. Bà đến trong giấc mơ của tôi, một giấc mơ mong manh. Và khi tôi tỉnh dậy, tất cả sẽ biến mất. Bà sẽ lại ra đi, lại bỏ tôi lại. Tôi sẽ không còn được ôm bà, được bà vuốt ve, được nghe bà kế' chuyện. Sợ! Tôi sợ phải tỉnh dậy. Tại sao đây chỉ là một giấc mơ? Tôi dụi đầu vào lòng bà, tôi ôm chặt lấy bàn tay bà, nắm chặt cái vạt áo của bà. Dù biết sẽ chẳng có tác dụng gì nhưng tôi vẫn muôn níu chặt bà lại, tôi không muôn bị bỏ lại một lần nữa. Có lẽ bà hiểu tôi đang nghĩ gì. Bà cũng níu lấy tôi, thật chặt. Bà kể chuyện cho cháu nghe đi! Cháu muôn nghe chuyện gì? Chuyện về các thiên thần mà hồi trước bà vẫn hay kể đó bà. Bà kể cháu nghe tại sao các thiên thần lại có thể luôn mỉm cười đi bà. Ừ! Cháu biết không... Và bà bắt đầu đưa tôi đến thế giới kì diệu ấy, thế giới mà chỉ có sự hồn nhiên và hạnh phúc. Tôi nhắm mắt lại, nghĩ về cái thế giới ấy, tay tôi vẫn nắm chặt lấy bà. Ước gì... ước gì tôi được cùng bà sống trong cái thế giới ấy. Gió se se lạnh băng qua thảm cỏ, nhảy múa trên những ngọn cây xào xạc, du dương. Gió mang cái hương ngai ngái, nồng nồng của cỏ rải khắp không gian. Dậy rồi à? Con gái con đứa ngủ hay quá ha! Vậy là bà đã đi rồi, tôi không giữ được bà. Vô vọng! Valentin không đi chơi với "nường" ra đây chi? Tôi quay sang, thằng bạn đã ngồi đó từ lúc nào Đi chơi những dịp này ai đi buổi sáng bao giờ. Giờ là lúc coi một con gâ'u mười lăm tuổi bảy tháng có lẽ ngủ giữa bờ sông không biết sợ là gì. Có bảo vệ mà. Hai nghìn tiền vé của tui chứ ít gì. về chứ? Hay ngồi đây ngắm "nàng" tới? - Tôi đứng dậy, đi về phía bãi giữ xe. Nếu tình cảm dành cho ai đó đủ mạnh mẽ thì dù đó là người đã khuất, hai tâm hồn vẫn sẽ gặp nhau dù bất cứ chuyện gì xảy ra. Hắn nói. Nói gì thế? Không có gì, ngủ gật nói mơ thôi, về nào, tôi còn đi chơi! A, mẹ cậu nói nếu đi sớm một chút sẽ ghé Thanh Hoá rồi mới đi tiếp. Tôi không trả lời, cùng hắn đi về. Gió lại tràn ngập không gian. Gió luồn qua từng nhánh cỏ. Gió tìm thấy một sợi len màu nâư cũ mắc trong ấy. Sợi len mềm mại, hiền từ vẫy cười trong gió. (Nguyễn Thị Quỳnh Mai) Bài 2 Nó lững thững trên đường về,... Hôm nay là ngày học sau cùng trước khi nghỉ Tết. Lẽ ra phải vui mới đúng, nhưng mà nó thấy trống vắng lắm. Nó nhớ năm ngoái, vào lúc này, nó đang cùng anh Nguyên dạo phô", mua sắm,... Còn năm nay, chỉ có nó một mình trên phô". Người ta vẫn tấp nập qua lại, tất bật chuẩn bị Tết. Ba mẹ nó cũng thê", bận rộn lắm, chẳng ai để ý nó đâu! Nó mải miết nghĩ, chẳng biết đang bước đến đâu. Chợt nó nghe tiếng la hét, vỗ tay,... Nó ngước lên... À, ra là nó đi tới nhà thi đấu thể thao Nguyễn Du. Không ngờ nó lại đi tới đây. Từ ngày anh Nguyên đi Mĩ tới giờ nó không còn dám bước vào chỗ này. Một năm qua đi, nó nén chặt nỗi nhớ thương anh trong lòng, nó làm quen với cuộc sông không có anh bên cạnh. Cứ ngỡ đã quên... Nhưng hôm nay, nó đến đây, đến cái nơi đã khiến anh phải xa đứa em gái. Nỗi nhớ trong nó dâng trào, nó không thể quay đầu bỏ đi, nhưng nó không dám bước vào hàng ghê" ngồi xem. Bởi vì bên trong kia, người ta đang thi đâ'u cái môn đã từng đưa anh nó đến bục vinh quang, cũng đã đưa anh nó đến với giường bệnh suốt gần một năm nay. Rồi bỗng nhiên, tai nó như ù đi, nó không tin vào tai mắt mình nữa. Trên ban tổ chức gọi loa rất rõ: "Mời vận động viên Nguyễn Hoàng Minh Nguyên, đơn vị quận Bình Thạnh". Rõ ràng là gọi anh Nguyên của nó mà. Nó nhìn vào... Từ ngoài, anh Nguyên trong bộ bảo hộ màu xanh tiến vào sân. Không thể nhầm được! Cái dáng đi nhanh nhẹn ấy... cái ánh mắt quyết tâm xoáy vào đốì thủ... và cả cái cách chào của anh... Không sai đâu, đó là anh Nguyên! Nó đứng lặng đi nhìn anh... Rồi trận đấu bắt đầu. Cái máu hăng say trong nó nổi lên bởi nó cũng là một tay đấu khá của môn này mà! Nó bị cuốn theo từng bước tiến, từng đòn đánh của anh. Anh Nguyên dĩ nhiên là chiếm ưu thế rồi. Mới ba mươi giây, anh Nguyên đã tiến lên tung ra những đòn kĩ thuật khó như cầu vồng cao, chẻ, tạt... ghi điểm rất nhiều. Hết hiệp một, cách biệt đôì thủ năm điểm. Vậy là chỉ còn hai điểm thôi anh sẽ thắng. Giờ thì nó tin chân anh Nguyên đã khỏi hẳn. Hiệp hai bắt đầu,... vừa lao vào, anh Nguyên đã bật người tung một cú đá lái rất đẹp. Nhìn từ ngoài vào, ai cũng phải tin rằng đô"i thủ hẳn phải "nô"c - ao" sau đòn đánh này. Nhưng mới quay nửa vòng anh Nguyên chợt đáp xuống đất và đứng lại. Mọi người xôn xao... đôì thủ của anh cũng không hiểu vì sao. Nó nhìn anh và nó cảm thấy lo lắng,... hình như chân anh vẫn còn đau! "Anh Nguyên ơi, dừng lại đi'", nó thì thầm. Nhưng trước mắt nó là ai chứ? Là anh Nguyên không bao giờ chịu thua! Anh đứng thẳng lên, trở lại thế thủ và tiếp tục xông vào. Ôi không! Anh bị đối thủ đánh kìa... một điểm, hai điểm... rồi năm điểm, sáu điểm... Càng bị đánh anh càng tỏ ra rất lì đòn. Thật may, còi trọng tài vang lên kết thúc hiệp hai. Nó chạy ngay vào chỗ anh ngồi nghĩ. Chỉ có một phút cho nó. Chăm sóc viên đang xịt thuốc, bẻ khớp cho anh. Nó vừa vào, anh đã thấy và đưa tay nắm lây tay nó. Nó biết anh mệt lắm, đau lắm, vậy mà anh vẫn nhìn nó, mỉm cười. Nó thì thầm: Anh Nguyên đau lắm hả? Không đau tí nào cả, nhóc à! Anh nhẹ nhàng nói. Hay là anh Nguyên dừng lại đi! Em sợ giống năm ngoái... Bậy nè! Anh nhóc vô địch cho nhóc xem nghen! Đưa khẽ ngón tay lên môi nó, anh nói bằng giọng rất quyết tâm. - Có nhóc cổ vũ như thế này, anh nhất định thắng mà! Thắng rồi anh về với nhóc, với ba mẹ, anh không sang Mĩ nữa! ơ đấy không bằng một góc nhà mình. Nói rồi anh buông tay nó ra và đi vào sân. Nó nhìn theo anh, vừa mừng vì anh sắp về với nó, lại vừa lo lắng cho anh trong hiệp đấu cuối. Nó cứ tin, nó tin anh nó sẽ chiến thắng. Dù thế nào, nó cũng cổ vũ cho anh Nguyên hết mình mà! Nhưng nó sợ, sợ lắm! Một năm trước đây, nó cũng cổ vũ cho anh, anh cũng chiến thắng, nhưng sau đó anh đã đi xa nó rất lâu! Nó hồi hộp theo dõi hiệp đấu. Anh Nguyên xem ra rất cẩn trọng do đối thủ đã biết rõ điểm yếu của anh. Anh nhanh nhẹn né đòn ở vòng ngoài đối thủ và tìm cơ hội phản công. Đôi với nó lúc này, nó không cần anh chiến thắng nữa, nó chỉ cần anh khoẻ mạnh trở về với nó. Chỉ còn ba mươi giây, anh Nguyên vẫn chưa gỡ được điểm số. Tưởng như anh đã thua, không ngờ bất thình lình, một tiếng hét của anh vang lên rất to, rồi nhanh như chớp, một đòn đá lái đưa gót chân vào ngang đầu đối thủ và đối thủ của anh ngã xuống trong tiếng reo hò của mọi người. Nó vui lắm, anh Nguyên thắng rồi! Nó chạy đến bên anh. Từ xa, anh Nguyên nhìn nó cười, cười thật tươi. Anh vẫn không sao cả, như vậy anh sẽ về với nó, đây mới là điều vui nhát! Nó không còn nghĩ gì nữa, anh đang dang tay đón nó! Xung quanh nó lúc này im lặng lắm. Không khán giả, không trọng tài, không tiếng reo hò, không tiếng loa gọi tên,... chỉ có tiếng thở của anh Nguyên và tiếng chân của nó. Nhưng lạ thật, nó càng chạy đến, anh Nguyên hình như lại càng xa, xa nó lắm,... anh vẫn đấy mà nó chạy mãi không tới. Rồi bỗng nó vấp phải một cái gì đó rồi ngã xuống. Chỉ kịp nghe tiếng anh la "Có sao không nhóc" thì nó bỗng thấy mọi thứ biến mât, anh Nguyên cũng biến mất. Trước mắt nó là chiếc ti vi, nó đang nằm trên ghế. Thì ra là một giấc mơ hạnh phúc. Nó ước gì nó có thể mơ mãi cả ngày,... và nó ước gì giấc mơ ấy sớm thành hiện thực. Câu chuyện giác mơ kia là một giác mơ thật, người anh ấy chính là anh Nguyên của tôi. Dù bạn có hiểu lòng tôi hay không, dù bạn có tin câu chuyện của tôi hay không, tôi chỉ muôn nói rằng trong cuộc sông có những điều mình ngỡ rằng đã quên nhưng thực sự vẫn nhớ mãi. Có khi chỉ một câu nói hay, một giâ'c mơ cũng đủ đánh thức con tim ta. Cũng như quả chuông vậy, khi để yên thì trầm tư, sâu lắng, khi đánh vào lại vang lên những thanh âm ngân vang. (Nguyễn Thái Đoan Nghi) Dề 3. Đã có lần em cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) thăm mộ người thân trong ngày lễ, tết. Hãy viết bài văn kể về buổi đi thăm đáng nhớ đó. Bài 1. Xuân đã về. Tiết xuân bao trùm cả đất trời. Nắng xuân nhẹ dịu trải trên đất, vương lên cành cây kẻ lá, rồi lắc rắc trên tay và mặt người. Có lẽ vì thế mà vào buổi chiều ba mươi Tết thế này, tại nghĩa trang, có thể là nơi cuối cùng còn lưu tiết lạnh của mùa đông, con người tự nhiên thấy' ấm áp hẳn lên. Cũng có thể thứ mang lại cho người ta cái hơi ấm nóng kì diệu ấy không phải là thứ gì khác mà chính là hai chữ sum họp. Và tôi cũng như vậy. Nhắc tới chữ "sum họp", chắc hẳn có hàng trăm, hàng vạn người nghĩ đến cảnh gặp gỡ đầy xúc động giữa mọi ngừơi sau thời gian dài xa cách. "Sum họp" của tôi cũng vậy. Nó chỉ đặc biệt ở mỗi chuyện là giữa người đang sôhg và người đã mất. Sẽ có những người cho là tôi bất thường khi dùng từ "sum họp" giữa hai người mà ta thường nói là ở hai thế giới khác nhau. Nhưng thực sự chỉ có những người ở đây, ngay lúc này mới có thể hiểu hết cảm giác hạnh phúc, xen lẫn trong đó là một chút xót xa, ngậm ngùi, mà nếu không nén lại, người ta có thế' bật khóc bất kì lúc nào. Đó chính là cảm giác được gặp lại người thân đã quá cố, cảm giác tưởng như gần ngay trước mắt nhưng thực chất lại rất xa, không thể nào kéo về được. Tất cả đều là những cảm giác lâng lâng trong người của những kẻ "tha hương" - như tôi đây. Khi mình gặp những người mà mãi sau chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại nữa. Chẳng bao giờ! Bây giờ là chiều ba mươi Tết và tôi đang thăm mộ ông ngoại. Tôi - kẻ "tha hương cầu thực", có thể lắm chứ - đang đi vào nghĩa trang, mà nói thật tôi chưa bao giờ đặt chân tới và cũng không bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ tới đây. Dù điều đó chỉ là chuyện sớm muộn. Nói là xuân, chứ cái tiết trời lúc ấy cũng "lạnh, rét buốt". Không nhầm rồi, trời chỉ hơi lạnh thôi, chỉ có tim tôi mới rét buốt. Nhưng thực ra, trong nghĩa trang chẳng lạnh chút nào cả, theo đúng nghĩa. Có lẽ nhờ những làn khói bốc ra từ mấy bó nhang đang nghi ngút cháy hay vì những bãi đốt giấy tiền, vàng bạc, hay tại tự tấp nập, nhộn nhịp của con người. Người thì ra, người thì vào, kẻ đốt nhang, kẻ đốt giấy tiền, vàng bạc. Không khí tại nghĩa trang lúc này cũng thật ấm cúng. Tôi rảo bước nhẹ nhàng qua từng ngôi mộ, từng dòng hiện ra trước mắt, nào là người chết trẻ, kẻ sông thọ. Những ngôi mộ thì cũng chả cái nào giông cái nào. Cái thì khang trang, cái thì cũ kĩ, cái thì sạch sẽ nhưng cũng có những cái như đã bị bỏ hoang từ lâu. Lướt qua dãy mộ mà tưởng như có cả thước phim dài về những cảnh đời của những con người tôi chưa một lần quên biết chạy qua, cho tôi những suy nghĩ, cảm xúc lẫn lộn, khó tả. Bước qua một ngôi mộ còn mới, chắc là mới chôn cất. Xung quanh nắm đất nổi lên đó, phủ đầy những vòng hoa tưởng niệm "chia buồn cùng gia quyến", cắm lên đó là đầy nhang mới dot, toả khói hương nghi ngút. Bên cạnh, một người phụ nữ đầu đội khăn tang, ngồi lặng thinh, cúi gầm mặt xuống, nấc lên từng tiếng nghe nghẹn ngào. Tự nhiên mắt tôi cay xè. Có lẽ là do khói. Nhưng có thể một lí do xa xôi nào đó, mà bản thân tôi cũng không hiểu được. Lòng tôi có một chút gì đó nặng trĩu, khó tả. Tôi bước nhanh qua, thật nhanh. Theo sự chỉ dẫn, tôi đã tìm được đến mộ ông ngoại. Một ngôi mộ mới xây khá đẹp, xung quanh là những viên gạch men màu hồng đen, sáng loáng. Bên trong là chiếc lư bằng đá và tấm bia làm bằng đá mài in tên ông ngoại. Nhìn đến đó cổ' tôi nghẹn đắng lại. Cả thân mình như cố' dùng một sức mạnh vô hình, ghì lại một cái gì đó đang tuôn ra. Phía trên dòng chữ là một bức ảnh ông ngoại mà nếu tôi nhớ không nhầm chính là hình của ngoại chụp trong đám cưới của cậu tôi. Giờ nó đang được gắn trên mộ. Trong hình, ngoại đang cười. Đổì với tôi, đó là một nụ cười dịu hiền và quý giá biết nhường nào bởi một điều sẽ chẳng bao giờ tôi được thấy nụ cười ấy, nghe được tiếng cười ấy một lần nữa. Không bao giờ! Đời là thế, con người luôn không biết quý những gì mình đang có, chỉ khi mất đi họ mới thấy hết giá trị của những điều đó. Câu đó thật quen. Có lẽ là tôi đã nghe, đã nghiền ngầm, đã nếm trải không biết bao nhiêu lần rồi. Vậy mà giờ đây sự tiếc nuôi đang ngập tràn trong tôi. Nếu như khi ấy tôi không quyết định đi học xa, có lẽ tôi đã được ở bên ngoại lâu hơn, ít ra thì cũng được ở bên ngoại khi ngoại trút hơi thở cuổì cùng. Để rồi giờ đây không mang trong lòng cảm giác một đứa cháu bất hiếu vì cái lợi danh mà ngay cả lần cuôì cùng ở bên ông cũng sẵn sàng đánh đổi. Thuở nhỏ, người thương tôi nhát nhà có lẽ là ông ngoại. Ông cho tôi ăn, chở tôi đi học, chơi với tôi những lúc ba mẹ đi vắng, mua cho tôi những hộp bút chì màu,... Ông là người chia sẽ, tâm sự với tôi khi tôi gặp những vướng mắc, khó khăn. Ông luôn là người giúp đỡ tôi mỗi khi tôi gục ngã, cho tôi sức mạnh để vươn lên, đề sống tốt đẹp hơn. Vậy mà, kể từ khi ông mất, đây là lần đầu tiên tôi đến thăm mộ ông. Mọi người thì cho đó là do hoàn cảnh đưa đẩy. Nhưng tự sâu trong đáy lòng của tôi, tôi chẳng muôn đỗ lỗi cho hoàn cảnh của bản thân. Tại sao lại phải đổ lỗi cho hoàn cảnh chứ, trong khi mọi việc đều do mình lựa chọn và quyết định. Tại sao tôi lại lựa chọn đi học xa trong khi tôi hoàn toàn có thể ở lại một năm để ở bên ông những ngày cuối đời. Tất cả đều do bản thân tôi, một đứa cháu bất hiếu. Nào có khó khăn gì đâu để từ bỏ một năm học bên xứ người để đổi lấy những ngày quý giá bên ông. Vậy mà tôi đã không làm như vậy, để rồi giờ đây đứng trước ngôi mộ của người ông đã quá cố bao nhiêu hốì hận, cảm giác tội lỗi vây kín trong tim tôi rồi bung ra quấn toàn thân tôi. Tôi đứng đó lặng đi thật lâu, thật lâu. Nắng chiều đã tắt, người cũng dần thưa thớt. Bó nhang trên mộ ông đã cháy được phân nửa, toả làn khói nóng bay vút lên trời. Xa xa, những làn khói trắng tan lơ mơ vào không khí. Tự nhiên tôi nghiệm ra một điều "nhang là sự chuộc lỗi vô vọng của những người còn sông đổì với người đã mất". Chẳng biết nó đúng không, nhưng đốì với tôi nó đang thực sự là như vậy. "Vô vọng", đúng vậy, thật vô vọng! Sẽ chẳng bao giờ làm được những điều đã qua. Tự nhiên tôi ước có được cỗ máy thời gian như trong những bộ phim viễn tưởng. Máy thời gian là tưởng tượng những ước mơ thời gian trở lại thì chẳng bao giờ là ảo ảnh cả. Đó là ước mơ không chỉ của riêng tôi mà là của rất nhiều người trên thế gian, những người đã từng lầm lỡ một điều gì đó trong quá khứ. Ngồi bên mộ ông, bất giác tôi cúi tháp người xuống ôm lấy ngôi mộ như ôm lấy người ông đã quá cố của mình. Hơi ấm phả ra từ đất hệt như hơi ấm trong lòng ông. Tôi ngồi như vậy rất lâu. Đâu đó chợt cất lên tiếng hát: Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, Để rồi đây tôi trở về là cát bụi. Bài hát tôi đã nghe rất nhiều lần nhưng có lẽ lần này là lần hay nhất. Một giọng nói trong tôi cất lên: "Bây giờ thì con không muôn đi nữa đâu, ngoại ơi!" (Trương Châu Thi) Bài 2. Vậy là một năm nữa lại trôi qua. Trong những ngày cuối năm với tiết trời se lạnh này ai ai cũng tự mình nhìn lại những gì trong suốt một năm qua mình đã và chưa làm được. Tôi cũng không ngoại lệ, trước mặt tôi lúc này là sổ liên lạc với dòng chữ to tướng "Xếp loại học lực: KHÁ". Đây là / lần đầu tiên tôi bị học lực khá, lần đầu tiên người ta không thấy tôi tung tăng cầm sổ liên lạc khoe khắp xóm hay nói cách khác lần đầu tiên một năm của tôi là thát bại. Nói như vậy không quá bởi tôi đã thất hứa với vong linh của ông, một người mà tôi rất đỗi tự hào. Mùa hè vừa rồi là mùa hè thành công của tôi khi tôi đậu vào một trường chuyên có tiếng của thành phố'. Ba tôi quyết định thưởng cho tôi một chuyến đi thăm mộ ông nội tại Côn Đảo. Từ nhỏ, tôi lớn lên cùng với những câu chuyện lịch sử của ba. Trong đó hiện ra ông nội, một chiến sĩ quả cảm, luôn tiến lên phía trước và đã không khuất phục trước đòn tra tấn nào kẻ thù xâm lược nên trong tôi ông nội là một bức tượng đài về tất cả mọi thứ tốt đẹp. Và hiển nhiên, thăm thần tượng của mình là điều mà ai cũng ước mơ, đặc biệt khi người ấy đã nằm xuống. Cuộc hành trình của chúng tôi gồm hai giai đoạn: đường bộ và đường thuỷ nên tôi có dịp thưởng thức phong cảnh non nước hữu tình mà tôi chỉ được biết qua một màn hình 21 inch, những hàng dừa xanh đua nhau khoe trái bên dòng sông mênh mông hay hòn cù lao một mình giữa dòng, đến cảnh biển bao la, xanh ngắt một màu. Gió biển thổi vào người lồng lộng xua tan đi cái nóng trên đất liền. Côn Đảo hiện ra trước mắt tôi kì vĩ lắm (hay trước đó tôi đã nghe về nó nên tưởng tượng vậy cũng nên). Nó khác xa với những gì tôi nghĩ, ở bãi biển có rất nhiều thuyền bè tấp nập ra vào, cuộc sông không một chút ảm đạm như cái quá khứ một thời của nó. Có lẽ đau thương đã qua và mọi người đang bắt đầu cuộc sông mới tốt đẹp hơn. Đi bộ lên một đoạn dốc gồ ghề với rất nhiều đá, chúng tôi mới đến được mộ của ông nội. Mộ của ông không đắp bằng xi măng mà là những hòn đá rất to chồng lên trên, chắc là có một ý nghĩa nào đó, đó là sự ngưỡng mộ dành cho ông và các đồng đội? Tôi thấy vai ba tôi khẽ rung lên, hình như ông đang nén tiếng khóc trước mặt con người mà ông chỉ có mười năm được gọi một tiếng "cha". Ba tôi đến đây hai ba năm một lần nên khóc là điều dễ hiểu, nhưng tại sao tôi lại sụt sịt ở mũi thế này. Dù là thần tượng của tôi, nhưng người nằm dưới những lớp đất đá kia chưa từng ôm tôi một lần, tôi cũng chưa biết khuôn mặt ông nói gì đến chuyện đòi quà. Chắc tại bởi trong người tôi đang chảy dòng máu của ông và trong lòng tôi là sự tự hào về ông và trong tim tôi là nỗi đau khi thấy ngôi mộ trơ trọi của ông. Ba và tôi đứng lặng giờ lâu, không ai nói một tiếng nào cả, chúng tôi cùng tiến lại mộ, ngồi xuống nhổ từng ngọn cỏ không biết tự khi nào đã mọc trên những khe hở của các tảng đá. Gió biển cứ ùa vào buốt cả người. Sau khi thăm mộ ông, chúng tôi đi thăm lại nhà tù Côn Đảo. Từ xa là một trường bắn gần bờ biển, ở đây có những cột gỗ vững chắc dựng lên giữa bãi cát trắng, đúng là hai trường phái nghệ thuật đôi lập. Thiên nhiên hữu tình và con người vô tình. Bao nhiêu chiến sĩ đã hi sinh, gục đầu trên những cột gỗ ấy nhưng giây phút cuối cùng vẫn hô vang hai tiếng Việt Nam. Cái chết không làm cho họ sợ. Trước hình ảnh đầu súng kẻ thù-chĩa vào người lúc không thể kháng cự, trước âm thanh rợn người, của tiếng đạn bay và cả tiếng máu phun ra từ chính mình. Tất cả những thứ đó đã không bằng tiếng gọi của nhân dân, của lòng người. Nhà tù Côn Đảo hiện ra với một sự ảm đạm khác xa cuộc sông chung quanh nó, và cũng khác xa ngôi mộ tuy trơ trọi nhưng ấm cúng của ông tôi. Từng cánh cửa được mở ra, với thứ âm thanh xé tan sự yên tĩnh, ánh sáng mới được truyền vào căn phòng chật hẹp, u tối, lạnh lẽo, phía trên là những ô sắt. Các chiến sĩ ta đã trải qua một nhà tù có lẽ là dã man nhất. Mùa nóng bọn Mĩ nhót cả mười mấy người vào căn phòng vài mét vuông để cho "tự sinh, tự diệt". Tôi cảm thấy thật nóng khi các hướng dẫn viên kể về điều đó, mà các anh lúc đó còn nóng nực hơn cả tôi. Thế còn may, vào mùa lạnh mỗi phòng chỉ có lẻ loi một người đối mặt với cái lạnh thấu tận xương tuỷ. ơ đây bọn chúng đã thực hiện không biết bao là trò tra tân dã man, những hình phạt ghê gớm đốì với những người tù ở đây. Bởi vậy mà đến giờ, những người trở về từ nhà tù Côn Đảo đều mang trong mình một căn bệnh do hậu quả của sự đàn áp đó. Tôi đã hứa rằng sẽ cố gắng nhiều, nhiều hơn nữa để xứng đáng với ông, với cả một lớp cha anh. Tôi quay lưng ra về mà lòng nhẹ lại, dường như gió mát hơn và sóng biển êm hơn... Thế mà giờ đây, tôi đã thất hứa, có lẽ ông đang thất vọng về tôi lắm, về đứa cháu đã không như ông, giữ trọn lời thề với Tổ quốc. Nhưng ông ơi, cháu sẽ lại cô' gắng, cháu sẽ làm được. Lòng miên man tôi nhìn ra cửa sổ, một nụ mai bắt đầu điểm vàng, lạ thật ba định đốn nó vì năm rồi nó không nở hoa. (Phan Huy Sang)

Tổng Hợp Những Bài Viết Số 2 Văn 9 Hay Nhất Với Đầy Đủ Tất Cả Các Đề (4 Đề)

Hà Nội, ngày…..tháng….năm……

Anh Thư thân mến!

Thời gian trôi nhanh và không bao giờ đợi ai và cũng chẳng ai níu kéo được thời gain dừng lại phải không Anh Thư? khi đứng trước ngôi trường chứa bao kỉ niệm ngọt ngào của tuổi học trò ngây ngô, mình lại thấy bồi hồi xúc động, mình như quay về là cô học trò nhỏ bé của 20 năm trước.

Hôm nay là một buổi sáng mùa hè trong xanh, không khí trong lành và nắng còn chưa gắt, mình bước vào cổng trường cấp hai quen thuộc và thấy thật ngạc nhiên. Trường mình thay đổi nhiều quá, cổng trường được xây dựng cao hơn, to hơn hồi bọn mình còn học ở đấy, những cây bằng lăng gầy gò ốm yếu nay đã vươn cao, cành lá xum xuê và đang thời kỳ trổ hoa, khi nhìn cảnh cửa mở ra như chào đón mình trở về bỗng nhiên mình lại nhớ về cảnh tan trường, học sinh ra về như vỡ tổ, bây giờ cổng trường to hơn rồi chắc không còn cảnh tượng ấy nữa, tự nhiên mình mỉm cười khi nghĩ lại thời học sinh,. Bước vào sân trường, bao cảm xúc, kỉ niệm lại ùa về, trường mình thay đổi nhiều quá, cái sân bê tông trũng cứ mùa lũ là ngập giờ đã thay bằng gạch đỏ, lát từng ô ngay ngắn, bằng phẳng và được nâng cao hơn. Những cây bàng, cây phượng đu đưa trong gió như gợi nhớ về những kỉ niệm đã xa.

Anh Thư ơi! mình còn nhớ lắm hình ảnh tập thể lớp ngồi yên ăng nghe giảng, nhưng chỉ được vài phút là nhao nhao nói chuyện, mình nhớ những buổi kiểm tra căng thẳng, nhớ những tiếng cười hồn nhiên và cả giọng nói ấm ấp của thầy cô khi giảng bài, đang miên man với những kỉ niệm thì ba tiếng trống báo hiệu giờ truy bài vang lên kéo mình quay về hiện tại. Ôi! tiếng trống thân thương, tiếng trống đi cùng tuổi học trò ngây thơ của mình suốt bốn năm, tiếng trống gợi lại bao nhiêu kỉ niệm về thời học trò đùa nghịch, chạy nhảy trên sân trường. Lúc này trên sân, học sinh ùa vào lớ, màu áo trắng tinh khôi trong sáng ấy hình như đi sâu vào tâm trí mình rồi Anh Thư à!

Ngoài sân bỗng chợt mình nhìn thấy hình bóng quen thuộc đang tiếng về phía mình, mình bật khóc, bao cảm xúc ẩn chứa bấy lâu nay đều tràn ra qua hàng nước mắt. Anh Thư có biết mình đã gặp ai không? Mình đã gặp cô Mai, cô giáo dạy văn hồi lớp 9 và dạy công dân suốt bốn năm mình học trung học đấy, mình chạy ra nắm tay cô, cả hai cô trò đều xúc động. Sau bao năm cô vẫn nhận ra mình, cô giờ hơn năm mươi tuổi rồi, tóc đã điểm bạc thế nhưng cô vẫn tâm huyết vơi nghề, vẫn yêu thương học sinh như ngày nào, hai cô trò hàn huyên rất nhiều chuyện, cô hỏi thăm công việc và cuộc sống của mình, cô còn hỏi mình có liên lạc với các bạn trong lớp không, giờ chắc các trò của cô thành đạt hết rồi nhỉ? Cô vẫn rất quan tâm tới các học sinh của cô, vẫn gương mặt hiền hậu, giọng văn truyền cảm.

Nhưng nhanh thật, 30 phút ra chơi ra trôi qua mình chào cô ra về nhưng trong lòng vẫn xúc động.

Thân ái!

Quỳnh Phương

Bỗng một vầng sáng hiện ra làm tôi loá mắt. Tôi định thần nhìn kĩ thì hoá ra là một ngôi nhà, một ngôi nhà được trang hoàng với những cành đào, cành quất trong dịp Tết đến xuân về. Kì lạ thay đó lại là ngôi nhà xinh xắn nằm ngay cạnh một luỹ tre xanh mát mà tôi đã từng ở với bà nội mình. Bóng dáng bà lão quét cống sao mà quen thuộc, gần gũi với tôi đến vậy ! Bà ! Bà ơi ! Vừa nhìn thấy bà, một tiếng gọi nào đó từ trái tim tôi cất lên như nâng bước chân tôi nhanh hơn. Rồi tôi chạy ùa vào ôm chầm lấy bà rối rít : “Bà ! Bà ! Cháu nhớ bà quá ! Bà khoẻ không bà ? Bà có nhớ cháu không ?”.

– Cháu bà lớn nhanh quá, càng lớn càng dễ thương.

Vừa nói nước mắt bà vừa chảy ra, tôi vội lấy khăn thấm cho bà rồi chúi đầu vào lòng bà, đôi mắt cũng cay xè : “Tết đến rồi, bà về thăm cháu đấy à ?”. Bà gật đầu. Đã ba năm rồi từ khi bà ra đi, ra đi mãi mãi…

Bà vẫn như thế, không có gì thay đổi. Mái tóc bạc trắng như cước được búi gọn ra sau gáy như một đoá sen trắng. Trên khuôn mặt phúc hậu đã lấm tấm đồi mồi những nếp nhăn như những rẻ quạt chạy dài từ phía trước ra sau tạo nên những lớp sóng trên gương mặt bà. Tuy vậy, ánh mắt của bà vẫn sáng, vẫn trong và hiền hậu.

Bất chợt, biết bao kỉ niệm những ngày tôi sống cùng bà tràn về. Tôi còn nhớ có lần bố mẹ đi công tác hết, chị tôi thì bận ôn thi đại học nên cũng chẳng mấy khi có ở nhà, chỉ còn tôi và bà quấn quýt bén nhau. Hôm đó, trên đường đi học về, tôi bỗng cảm thấy nửa hàm răng dưới đau buốt. Đầu nhức ong ong. Nuốt nước bọt lại thấy bỏng rát. Về đến nhà, quăng cái cặp sách vào ngăn bàn, tôi leo lên giường, trùm chăn, không ngăn được tiếng rên cứ bật ra và những giọt nước mắt ứa dài trên má.

Thấy vậy, bà vội chạy đến bên giường, lật chăn. Thấy tôi nằm cuộn tròn, nước mắt giàn giụa, tay ôm má, bà dịu dàng : “Trời, cháu bà ốm đây mà. Khổ thân cháu tôi. Nào ! Ngồi dậy để bà xem thế nào ?”. Vừa nói bà vừa nhẹ nhàng đặt tay lên trán tôi, tay kia vòng qua lưng đỡ lấy tôi dậy, bế vào lòng. Cái đau trong răng, trong họng tôi dịu hẳn. Tôi nép vào ngực bà thút thít : “Bà ơi ! Cháu đau cả hàm răng dưới, đau cổ họng lắm. Cháu thấy khó chịu, chẳng muốn ăn gì cả bà ạ !”. Bà khéo léo bảo tôi há miệng để bà xem răng, xem họng. Tuy không phải là bác sĩ nhưng bà đã có nhiều kinh nghiệm. Hồi nhỏ, bố tôi cũng hay đau răng, đau họng lắm. Chăm chú xem xét một lúc bà bảo : “Không sao. Quả thật cái răng, cái họng của cháu có hơi mất trật tự một chút. Sáng mai bà sẽ đưa cháu đến bệnh viện khám xem sao !”.

Cả đêm ấy, tôi đau, rên, mất ngủ. Bà nấu cháo gạo nếp sánh, thơm phưng phức, pha sữa dỗ tôi cố ăn cho chóng khoẻ. Chốc chốc, bà lại dấp khăn mặt ướt đắp lên cái trán dô, nóng hôi hổi của tôi cho hạ bớt nhiệt độ. Nhìn bà vất vả, tất bật, đi đi lại lại, miệng tôi đắng ngắt nhưng vẫn cố nuốt vài miếng cho bà vui lòng. Suốt đêm bà thức trắng để trông tôi.

Sáng hôm sau, bà đưa tôi lên viện. Ở phòng bệnh, tôi được biết mình bị hai bệnh tấn công một lúc : viêm chân răng hàm dưới và viêm a-mi-đan. Bác sĩ chỉ định nhổ răng và một tuần sau sẽ cắt a-mi-đan. Tôi sợ tái mặt. Bà thoáng đăm chiêu nhưng rồi lại tươi cười dỗ dành, an ủi : “Thôi vậy, bà cháu ta đành phải tạm trú trong viện này dăm bữa để giải quyết hai tên giặc hỗn láo dám làm phiền cháu gái bà.”

Hai lần nhổ răng và cắt a-mi-đan là hai lần khổ sở, vật vã nhất đối với tôi. Lúc nhổ răng và cắt a-mi-đan tôi chỉ thấy tê tê, sột sột vì được tiêm thuốc tê nhưng khi thuốc hết tác dụng thì tôi thấy đau ơi là đau, đau tái cả người. Mỗi lần mở mắt thức dậy, tôi đã thấy bà nằm bên, nắm tay tôi. Đêm đêm bà nằm sát vào tôi rồi ôm tôi vào lòng, ru tôi ngủ. Tôi vẫn rất đau và khó chịu nhung vì thương bà tôi cố chịu đau khi tiêm, cố uống thuốc, uống sữa, húp cháo cho bà yên tâm.

Đúng một tuần nằm viện, bà đón tôi trở về nhà. Đôi mắt bà hấp háy niềm vui, dịu dàng, chan chứa tình thương. Một tuần đi qua, tôi thấy chiếc áo bà mặc rộng ra, đôi tay gầy gầy, xương xương hơn, nếp nhăn cũng nhiều hơn, da bà nhăn nheo, xanh xao hơn. Bất giác tôi thấy sống mũi cay cay, mắt nhoè đi.

Cứ được ôm bà, gần gũi với bà như vậy thật hạnh phúc biết bao. Bóng hình bà biến thành rất nhiều con đom đóm chập chờn như những đốm lửa. Đèn trời không biết từ đâu xuấn hiện rất nhiều chiếu sáng khắp nơi. Bà ơi !… Bà đừng đi !…

Bỗng có ai đó lay tôi dậy rồi tiếng mẹ tôi gọi :

– Dậy đi con ! Gần sáng rồi, vào nhà ngủ kẻo lạnh, sương xuống nhiều quá ướt hết tóc con gái tôi rồi !

Giờ đây khi đất nước đã được thái bình tôi không hề quên được trận đánh vẻ vang đấy. Nghĩ lại thời đấy thì tôi vẫn rất buồn khi có nhiều người đã hi sinh, chúng tôi tự hào về cuộc chiến đấu của mình. Tôi mong rằng sau này đất nước sẽ không còn chiến tranh, mọi người có cuộc sống hạnh phúc. Trận chiến Hà Hồi- Đống Đa đã đi vào trang sử vàng của dân tộc, niềm tự hào của con cháu muôn đời.

Viết Bài Tập Làm Văn Số 3 Lớp 9 Đề 2 Trang 191 Sgk Ngữ Văn 9

Đề bài: Hãy tưởng tượng mình gặp lại người lính lái xe, trong Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Em hãy viết bài văn kể về cuộc gặp gỡ và trò chuyện đó.

Gợi ý làm bài viết bài tập làm văn số 3 lớp 9 đề 2

– Thể loại: tự sự + miêu tả nội tâm + nghị luận.

– Nội dung: cuộc gặp gỡ và trò chuyện giữa em và anh bộ đội lái xe Trường Sơn (Bài thơ về tiểu đội xe không kính).

– Kể chuyện sáng tạo trên cơ sở một tác phẩm văn học. Đó là nhân vật trữ tình trong một bài thơ.

– Cần bám sát nội dung Bài thơ về tiểu đội xe không kính để xây dựng một câu chuyện thích hợp.

– Bài viết cần vận dụng được các thao tác làm bài văn tự sự; kể linh hoạt, bố cục hợp lí.

* Gợi ý làm bài:

– Để “nhân vật kể chuyện” gặp được nhân vật người lính lái xe cách đây đã hơn ba chục năm, cần tạo được một tình huống truyện hợp lí.

– Có thể dựa theo bài thơ mà tách thành những cảnh nhỏ cho dễ kể và dễ thể hiện nhân vật. Ví dụ: cảnh xe trên đường ra trận với gian khổ, hiểm nguy; cảnh những người lính lái xe gặp nhau, thành đoàn xe không kính; cảnh gia đình lái xe quây quần nơi bãi nghỉ…

Dàn bài viết bài tập làm văn số 3 lớp 9 đề 2

1. Mở bài:

Trong cuộc sống, có những người ta chỉ gặp một lần, chỉ trò chuyện chốc lát nhưng cũng đã để lại nhiều dấu ấn, tác động sâu sắc đến cuộc sống chúng ta. Thật may mắn và tình cờ, tôi đã được gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Cuộc gặp gỡ và trò chuyện ấy đã tác động rất nhiều đến suy nghĩ và tình cảm của tôi.

2. Thân bài:

– Kể lại tình huống được gặp gỡ, trò chuyện với người lính lái xe (Nhà trường tổ chức cho lớp đi thăm nghĩa trang Trường Sơn ngày 27-7. Ở đó, tôi được biết người quản trang chính là người lính Trường Sơn năm xưa…)

– Miêu tả người lính đó (ngoại hình, tuổi tác, …)

– Kể lại diễn biến cuộc gặp gỡ và trò chuyện:

+ Tôi hỏi bác về những năm tháng chống Mỹ khi bác lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

+ Người lính kể lại những gian khổ mà bác và đồng đội phải chịu đựng: Sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn của kẻ thù là xe bị vỡ kính, mất đèn, không mui.

3. Kết bài:

+ Chia tay người lính lái xe.

+ Suy nghĩ về cuộc gặp gỡ, trò chuyện:

– Những câu chuyện người lính kể cho tôi nghe tác động rất nhiều đến suy nghĩ và tình cảm của tôi.

Tôi khâm phục và tự hào về thế hệ cha ông anh dũng, kiên cường đánh giặc và làm nên chiến thắng vẻ vang.

– Tôi thấm thía hơn giá trị thiêng liêng của chủ quyền tự do, độc lập mà dân tộc ta đã đổ bao xương máu mới giành được.

– Liên hệ với bản thân: phấn đấu học tập, tu dưỡng.

Bài văn mẫu viết bài tập làm văn số 3 lớp 9 đề 2 – kể về cuộc gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe

Bài văn mẫu 1

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.

Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc – Nam

Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:

– Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì “bom rơi đạn lạc” như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không cỏ vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.

Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt của các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: “Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua được thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ”. Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt của thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.

Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ,

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khản. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, xiết chặt tình đồng đội.

Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.

Bài văn mẫu 2

Nhân dịp nhà trường tổ chức sang nghĩa trang liệt sĩ thắp hương lúc đó tôi đã gặp một người sĩ quan đang đứng thắp hương cho người đồng đội đã hi sinh vì tổ quốc. Tôi và người sĩ quan này trò chuyện rất vui và thật tình cờ tôi biết được người sĩ quan này chính là anh lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

van mau hay tuong tuong va ke lai cuoc gap go nguoi linh lai xe rieu doan xe khong kinh cua pham tien duat Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ đóNgười sĩ quan kể với tôi rằng cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, trên những con đường huyết mạch nối giữa miền Bắc-Nam là nơi ác liệt nhất .Bom đạn của giặc Mĩ ngày đêm dội xuống những chặn đường này nhằm cắt đứt sự tiếp viện giữa miền Bắc-Nam. Trong những ngày đó anh chính là người lính lái xe làm nhiệm vụ vận chuyển lương thực,thực phẩm, vũ khí… Trên con đường Trường Sơn này. Bom đạn của kẻ thù đã làm cho những chiếc xe của các anh không còn kính nữa nghe anh kể, tôi mới hiểu rõ hơn về sự gian khổ mà người lính đã phải chịu đựng ngày đêm. Nhưng không phải vì điều đó mà họ lùi bước họ vẫn ung dung lái những chiếc xe không kính đó băng băng đi tới trên những chặn đường. Họ nhìn thấy đất, thấy trời thấy cả ánh sao đêm, cả những cánh chim sa họ nhìn thẳng về phía trước, nơi đó là những tương lai của đất nước được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc, ấm no, tự do. Anh lái xe kể với tôi rằng xe không có kính cũng thật bất tiện nhưng họ vẫn chịu đựng lái xe ngày đêm, những hạt mưa sa, hạt bụi bay vào làm cho những mái tóc đen xanh trở thành trắng xóa như người già,họ cũng chưa cần rửa nhìn nhau cất tiếng cười ha ha. Ôi! sao tiếng cười của họ nhẹ nhõm làm sao.

Gian khổ ác liệt bom đạn của kẻ thù đâu đâu cũng có cũng không làm cho họ rờn lòng. Những chiếc xe không kính lại tiếp tục băng băng trên những tuyến đường ra trận, gặp mưa thì phải ướt áo thôi. Mưa cứ tuôn cứ xối nhưng họ vẫn chưa cần thay áo và cố gắng lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua những chặn đường bom đạn, ác liệt, bảo đảm cho an toàn những chuyến hàng rồi họ nghĩ mưa sẽ ngừng, gió sẽ lùa rồi áo sẽ mau khô thôi. Khi đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính tôi nghĩ rằng những khó khăn gian khổ ác liệt đó chỉ có trong các nhân vật truyện cổ tích, bài thơ vượt qua được nhưng đó là những suy nghĩ sai lầm của tôi bởi được gặp, được trò chuyện với những người lái xe năm xưa tôi mới hiểu rõ hơn về họ.Họ vẫn vui tươi tinh nghịch,những tiếng bom đạn ngày đêm vẫn luân nổ bên tai, phá huỷ con đường cái chết luân rình rập bên họ nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời.

Anh lái xe kể với tôi nghe những con đường vận chuyển, họ còn được gặp những đồng đội của mình,có cả những người lính đã hi sinh… Những phút giây gặp lại hiến hoi đó cái bắt tay qua cửa kính đã vỡ đã làm cho tình cảm của họ trở lên thấm thía hơn rồi những bữa cơm trên bến Hoàng Cầm với những cái bát, đôi đũa dùng chung quây quần bên nhau như một đại gia đình của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi những phút giây nghỉ ngơi trên những chiếc võng đu đưa. Anh sĩ quan còn nói cho tôi biết chiếc xe không những không có kính mà xe còn không có đèn, không có mui xe thùng xe có xước những thiếu thốn này không ngăn cản được họ những chiếc xe băng băng đi về phía trước vì miền Nam ruột thịt họ đầy dũng cảm, lạc quan nhưng họ vẫn sống và chiến đấu vì tổ quốc vì nhân dân. Những chuyến hàng của họ đã góp phàn tạo nên chiến thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng miền nam đất nước thống nhất.

Tôi và anh lái xe chia tay nhau sau cuộc gặp gỡ đó và nói chuyện rất vui.tôi khâm phục những người lính lái xe bởi tình yêu nước, ý chí kiên cường của họ, chúng ta luân ghi nhớ công lao to lớn của họ, chúng ta càn phải phấn đấu nhiều hơn nữa.

Hãy tưởng tượng mình gặp gỡ và trò chuyện với người lính lái xe trong bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể lại cuộc gặp gỡ đó – Bài làm 2

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân, ngày 22 tháng 12, để chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu cùa dân tộc, nhà trường đã mời đoàn cựu chiến binh về thăm và trò chuyện. Trong đoàn đại biểu đó, tôi bắt gặp một người lính trên ngực gắn nhiều huân chương và trong buổi lễ chú đã giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đả lân la đến gặp và có cuộc nói chuyện thú vị với chú.

Các bạn có lẽ không thể hình dung được, người chiến sĩ lái xe trẻ trung, sôi nổi năm xưa giờ đĩnh đạc, oai nghiêm trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khoẻ, ấm áp và tiếng cười âm vang. Cùng tháng năm, khuôn mặt tuy đã già dặn nhưng vẫn có vẻ hóm hỉnh, yêu đời của người lính. Qua trò chuyện, có thể thấy chú là người rất vui tính, nhiệt tình, đặc biệt là khi chú kể cho tôi về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể với tôi, năm 1969 là năm chú thường cùng các anh em trong tiểu đội lái xe qua đây, cũng là năm mà Mĩ đánh phá rất ác liệt trên tuyến đường này. Bởi đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến đường quan trọng nhất, là đầu mối giao thông, liên lạc hai miền Bắc – Nam

Chúng quyết phá cho bằng được. Chúng thả hàng ngàn tấn bom, cày xới những khung đường, đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây đã đổ, muông thú mất chỗ ở. Đã có nhiều người ngã xuống để bảo vệ con đường. Tuy Mĩ đánh phá ác liệt thật, nhưng những đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối đuôi nhau trên con đường, đem theo bao lương thực, vũ khí đạn dược cho chiến trường miền Nam. Kể một lúc, chú lại mỉm cười và nói với tôi:

– Cháu thấy đấy, cuộc chiến đấu của các chú trải qua biết bao gian khổ, khó khăn. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ cả một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta oanh liệt hào hùng. Trên tuyến đường Trường Sơn giặc Mĩ đánh phá vô cùng ác liệt; bom Mĩ cày xới đất đai, phá hỏng những con đường, đốt cháy những cánh rừng, phá huỷ biết bao nhiêu những rừng cây là lá chắn của ta. Nhưng không vì “bom rơi đạn lạc” như vậy mà các chú lùi ý chí, các đoàn xe vân tải ngày đêm nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các chú còn phải đi trong bóng đêm theo sự hướng dẫn của các cô thanh niên xung phong để tiến về phía trước trong màn đêm sâu thẳm của rừng hoang. Có hôm trời tối Mĩ phát hiện ra, ta chuyên chở qua rừng, bọn chúng đã thả bom để không cho ta qua, phá vỡ chiếc cầu nối Bắc – Nam. Nhưng đặc biệt hơn cả là đoàn xe vận tải không có kính vì bị “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Bom đạn trải xuống hàng loạt khiến nào là kính, nào là đèn vỡ, mui xe bẹp, nào là thùng xe xước… Không có đèn vượt qua dãy Trường Sơn đầy nguy hiểm như thế mà các chú vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đánh Mĩ, chạy dọc Trường Sơn. Chẳng khác nào “châu chấu đá xe”, Mĩ với bao nhiêu thiết bị tối tân đế đánh ta nhưng chúng ta đã vượt qua những gian khổ để đánh chúng. Chú còn nhớ trên các cabin những chiếc xe như thế, bọn chú không cỏ vật gì để che chắn cả, gió táp vào mặt mang theo bao nhiêu là bụi. Gió bụi của Trường Sơn làm mắt cay xè, tóc bạc trắng như người già còn mặt thì lấm lem như thằng hề vậy, thế mà không ai cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc hút ngang nhiên, ai nấy nhìn nhau rồi cười giòn giã vang khắp dãy Trường Sơn.

Với những ngày nắng là như vậy nhưng đến lúc mưa thì các chú còn khổ hơn nhiều, Trường Sơn mỗi lúc mưa là mưa như trút nước cộng thêm vào đó là những giọt sương muối ở rừng hòa vào dòng nước mưa phả vào da thịt cùa các chú tê rát cả da mặt, áo thì ướt hết. Lắm lúc lạnh quá các chú phải tì sát vào nhau mà nghĩ thầm: “Vì bảo vệ Tổ quốc phải vượt qua dược thiên nhiên thì mới là những người lính của bộ đội Cụ Hồ”. Vì những lời nhủ thầm đó mà chú và các đồng đội mới trải qua được sự khắc nghiệt được thiên nhiên, thiên nhiên trong thời kỳ đó lắm lúc cũng là kẻ địch của mình đấy cháu ạ. Thế nhưng các chú vẫn cầm vô lăng lái một cách hăng hái hàng trăm cây số nữa có đâu cần thay người lái, gió lùa rồi quần áo lại khô thôi.

Cháu biết không: Người lính Trường Sơn năm xưa giản dị, đơn sơ lắm. Để trải qua những ngày tháng ấy các chú phải vượt qua biết bao nhiêu gian lao vất vả mà đặc biệt là phải biết vượt qua chính mình, có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua những khó khăn như thế con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình thật kỳ diệu. Xe không kính cũng là một thú vị vì ta có thể nhìn cả bầu trời, không gian rộng lớn khoáng đạt như ùa vào buồng lái, những ngôi sao đều nhìn thấy và những cánh chim chạy thẳng vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ vui phơi phới, thật đúng là:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ,

Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi các chú gặp nhau thì thông qua cửa kính bắt tay. Đó là sự động viên, truyền thêm sức mạnh cho nhau để vượt qua khó khản. Mỗi khi giữa rừng, bên bếp Hoàng cầm sưởi ấm bao trái tim người chiến sĩ, các chú nghĩ từng chung bát chung đũa tức là một gia đình, là người trong một nhà rồi đấy cháu ạ. Một cử chỉ nhỏ của người chiến sĩ cũng làm cho họ gắn bó thêm, xiết chặt tình đồng đội.

Được nghe chú kể những vất vả ấy tôi thật khâm phục hơn tình đồng chí đồng đội, lòng dũng cảm hiên ngang của người chiến sĩ. Tôi thầm mơ ước trên thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi thanh bình.

Bài văn mẫu 3

Hè vừa qua tôi được về thăm quê nội, điều làm tôi vô cùng bất ngờ và sung sướng đó là được ngồi cạnh một người lính mà trước đây chính là người lái xe trong đội xe được Phạm Tiến Duật miêu tả trong bài thơ: Tiểu đội xe không kính năm đó.

Người lính của tiểu đội xe không kính năm đó bây giò đã già, mái tóc đã điểm bạc, ông bùi ngủi kể cho tôi nghe những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến, về những kỉ niệm của tiểu đội xe không kính huyền thoại.

Thời điểm đó cuộc kháng chiến của dân tộc ta vô cùng ác liệt, những con đường huyết mạch luôn được bảo vệ chặt chẽ, bom đạn của kẻ thù cũng tập trung bắn phá ở những nơi đây. Ngày đó chú làm nhiệm vụ lái xe vận chuyển lương thực vũ khí cho tiền tuyến và đi qua con đường Trường Sơn lịch sử.

Với sự đáng phá dữ dội của giắc Mĩ, những chiếc xe ấy đã bị tàn phá, mất kính, mất đèn, thậm chí mất cả mui xe. Bom đạn ác liệt, ngồi trên chiếc xe không được bảo vệ nhưng lúc đó trong người những chiến sĩ chúng tôi chỉ có ý chí chiến đấu, nên vẫn ung dung, thản nhiên. Không có vật chắn, các chú càng dễ dàng nhìn mọi vật xung quanh mình, nhìn trời, nhìn sao, và thấy yêu quê hương hơn, có tinh thần chiến đấu hơn.

Lái xe không có kính nên bụi bám đầy người, mỗi khi dừng lại, đồng đội nhìn nhau thấy người nào cũng trắng xóa thì cứ cười ha ha với nhau. Đến giờ đi, các chú lại ngồi lên những chiếc xe đó. Bom đạn ngày đêm vẫn dội trên đầu, ngay sát chân, sống chết rất mong manh nhưng những người chiến sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, yêu đời, coi cái chết nhẹ nhàng, không có gì đáng sợ cả

Người chiến sĩ ấy đã kể cho tôi nghe trên những cung đường vận chuyển đó chú luôn được gặp những người bạn, những người đồng đội của mình. Có những người chỉ gặp một lần rỗi mãi mãi ra đi. Họ bắt tay nhau qua ô cửa kính để sưởi ấm tình đồng đội. Nhiều khi họ dùng bữa cơm cùng nhau bên bếp Hoàng Cầm với những cái bát,đôi đũa dùng chung,quây quần bên. Người chiến sĩ lặng người đi khi nhắc đến những kỉ niệm nghĩa tình ấy. Rồi những giây phút nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa,kể cho nhau nghe sự ác liệt của những cung đường đã đi qua. Không chỉ kể những chuyện về tiểu đội xe của mình, người chiến sĩ còn cho tôi thấy được sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong. Nhiệm vụ của các cô là luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt.

Tôi hỏi người chiến sĩ rằng, các chú đi trên những chiếc xe trong hoàn cảnh như vậy mà các chú cứ đi phăng phăng được sao? Người chiến sĩ ấy đã nói một câu làm tôi thật sự xúc động. Các chú chạy phăng phăng để dành lại độc lập, chạy về miền Nam ruột thịt đang cần các chú ở phía trước. Tôi thấy những người lính lái xe khi ấy thật dũng cảm, học đã sống và chiến đấu hết mình vì tổ quốc. Chính ý chí và tinh thần của họ đã góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.

Đã đến lúc người chiến sĩ ấy phải xuống xe, tôi chia tay chú trong niềm nuối tiếc và xúc động. Tôi rất khâm phục những người lính lái xe khi ấy, tôi sẽ tỏ lòng biết ơn họ bằng cách học tập thật tốt, để góp phần xây dựng và bảo vệ nước nhà ngày càng giàu mạnh.

Bài văn mẫu 4

Hôm nay là một ngày đẹp trời và vô cùng thích hợp cho một buổi du xuân. Và hôm nay, tôi sẽ được cùng cha mẹ về thăm quê ngoại thân yêu. Bước xuống xe, tôi chợt bất ngờ bởi vẻ thanh bình chốn đồng quê. Bầu trời mùa xuân như trong trẻo hơn bao giờ hết. Nắng chan hoà trải dài trên những con đường, như bao trùm lên vạn vật một màu vàng tươi ấm áp. Mưa phùn giăng giăng và phảng phất trong không khí là cái se lạnh của mùa đông còn sót lại. Tôi bước theo chân cha mẹ vào ngôi nhà thân thuộc nơi giữa làng, đó là nhà của ông bà ngoại tôi. Thoáng thấy bóng người, ông bà ngoại tôi tươi cười chạy ra tận cửa đón. Tôi chạy lại ôm chầm lấy bà. Ông bà tôi với mái tóc đã bạc quá nửa đầu, trên da đã in hằn dấu vết của thời gian, vẫn nở nụ cười rạng rỡ mặc cho các nếp nhăn cứ xô lại với nhau. Rồi mẹ và bà tôi cùng vào bếp nấu ăn. Ông ngoại dẫn tôi và bố vào nhà ngồi nói chuyện. Bố và ông nói chuyện rôm rả, chốc chốc hai ông con lại cười vang cả gian nhà. Bất chợt tôi để ý đến một cánh tay bị khuyết của ông ngoại. Thấy tôi tròn vo mắt nhìn, bố cười:

– Con gái à, ông ngoại con ngày xưa là lính lái xe Trường Sơn đấy!

– Thật không bố? – Tôi càng ngạc nhiên hơn.

Ở lớp tôi vừa được học tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của “Phạm Tiến Duật”. Còn giờ đây, trước mắt tôi là anh lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Tôi có đang nằm mơ không nhỉ? Những lời thơ đầy tinh thần lạc quan ấy lại âm vang trong tâm trí tôi, như thôi thúc trí tò mò của tôi.

– Ông ơi có phải ông là một trong những người lái chiếc xe không kính không ạ? – Tôi nhanh nhảu.

– Đúng rồi đấy cháu ạ – Ông tôi cười khà khà.

– Ông ơi ông, ông kể cho cháu nghe chuyện thời chiến ngày xưa đi ông.

– Chuyện ngày xưa ấy hả cháu… – Ông tôi khẽ thở dài, đôi mắt nhìn xa xăm như đang chìm trong dòng hồi tưởng. Rồi ông bắt đầu kể say sưa.

– Ngày xưa ấy cháu ạ, cái thời của vài chục năm về trước, ông và đám thanh niên con trai trong trường đã viết đơn xin nhập ngũ. Có những người , có những lá đơn không chỉ được viết bằng giấy và bút, mà còn viết bằng máu và nước mắt. Năm đó ông quyết tâm rời xa giảng đường đại học, lên đường vào Trường Sơn chỉ mong sao cho nước nhà sớm giành được độc lập, mong sao chóng thoát khỏi cái nghèo cái khổ của kiếp nô lệ lầm than… – Ông ơi, có phải những chiếc xe ngày đó đều không có kính đúng không ạ?

– Tôi nhanh nhảu.

– Đúng rồi đấy cháu – Ông tôi cười khà khà

– Ngày đó, ông lái xe tải, cùng đồng đội chở lương thực, thuốc men,…vào chiến trường Đông Nam Bộ. Có những khi phải lái xe hàng tháng trời mới đến nơi. Mà Trường Sơn lại là tuyến đường trọng điểm nối liền nam bắc nên giặc bắn phá rất dữ dội. Những chiếc xe ban đầu được trang bị toàn xe mới, đầy đủ và sạch sẽ như bao xe tải khác. Nhưng rồi, trải qua những lần bom giật, bom rung, kính vỡ đi hết. Xe không đèn, ông còn phải thay thế bằng cái đèn dầu treo trên nóc xe chứ toàn đi ban đêm để tránh giặc bắn phá, không có ánh sáng thì đi kiểu gì hở cháu?

Ông lại khẽ thở dài, rồi ông còn phải trang bị cho xe mấy mảnh vải giàn ri với lá cây, cành cây chằng chịt để giặc từ trên nhìn xuống sẽ khó phát hiện nữa cháu ạ.

Tôi chống hai tay lên cằm, chăm chú nghe từng chi tiết mà ông kể. Chiến tranh ngày đó quả thực vô cùng khốc liệt. Nó đã biến những chiếc xe trở nên thật trần trụi. Thấy ông đăm chiêu, tôi hỏi tiếp:

– Lái một chiếc xe trần trụi nhưng vậy, nguy hiểm lắm phải không ông?

– Phải, cháu ạ. Ngày ấy, khi lái những chiếc xe không kính như vậy, những người lính như ông gặp khó khăn gấp trăm lần. Cháu không biết chứ, đường Trường Sơn khấp khuỷu, ghập ghềnh, lại thêm bom đạn của giặc Mĩ, sống và chết cứ cận kề trong gang tấc. Xe không kính, mà đường mùa khô bụi cứ mù mịt. Bụi cuốn vào trong cabin, vào mặt, vào thân mình đỏ rực màu đất đỏ. Bụi và gió nhiều đến mức mắt cay xè, không mở nổi. Rồi mưa nữa. Mưa khi đó thất thường lắm! Có khi xe đang băng băng trên đường thì mưa đổ xuống, gió mưa xối như ngoài trời, cả người và xe đều ướt sũng. Lạnh, cháu ạ. Nhưng những người lính lái xe không bao giờ dừng lại. Gío mạnh, xe lại không có kính chăn gió nên bị vứt vào cabin đủ thứ, lá rừng, cành cây,…

Ông chỉ cho tôi xem cái sẹo dài trên vai ông

– Đây này, chính là bị cành cây cứa vào đấy cháu ạ. Bị thương mà nước mưa vào, đau rát kinh! Rồi đây… – Ông lại giơ cánh tay trái bị khuyết lên – Ông lần đấy suýt chết đấy, cuối cùng phải bỏ lại cánh tay này nơi chiến trường mới sống sót trở về nhà được.

Ông nói rồi cứ liên tục thở dài, đôi mắt đã in hằn nhiều vết chân chim vẫn đăn chiêu, chú mục vào nơi vô định. Ông tôi – như chìm nghỉm trong biển ký ức. Rồi dường như, tôi còn thấy được cái gì đó long lanh nơi khoé mắt ông ngoại.

– Cháu gái à, khi đó ông có một người đồng đội. Bọn ông đã cùng chiến đấu trong những ngày gian khổ ấy. Ấy vậy mà, anh ta đã phải hy sinh ngay sau vô lăng chỉ vì muốn cố gắng chở xe lương thực vào đến nơi… – Ông cố kìm nén – Thời ấy khổ thì khổ thật, cơ mà vui lắm cháu à. Xe không kính ấy thế mà hay, khi bắt tay với bạn bè, đồng đội không cần mở cửa xe mà bắt tay nhau qua ô cửa kính vỡ. Tiện lợi mà vẫn thắm tình đồng đội. Lính lái xe như ông thì chỉ cần một cái bắt tay, được động viên như thế là vui rồi. Đến bữa á, dừng chân ở một bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là đồng đội cũng thân thiết như anh em trong nhà. Ôi, những ngày ấy, giờ phút giải lao luôn là những giờ phút hiếm hoi nhất. Võng mắc chông cha chông chênh trên những chặng đường rừng, chỉ để tranh thủ chợp mắt một chút. Rồi sau đó, lính lái xe lại tạm biệt nhau lên đường, mà có biết bao giờ lại được gặp lại nhau!

– Chiến tranh qua lâu thế rồi mà ông vẫn không quên ạ?

– Quên làm sao được hở cháu? – Ông tôi cười, nụ cười hiền hậu mà tôi luôn yêu mến. – Ngày ấy lính lái xe cứ có khẩu hiệu với nhau “Yêu xe như con, quý xăng như máu”. Qủa thực ông đã coi chiếc xe của mình như máu mủ, làm sao mà quên dễ thế được… Đúng lúc đó, mẹ tôi từ trong bếp gọi vọng ra. Chắc bà và mẹ đã nấu thật nhiều món ăn ngon đây!!! Ông mỉm cười, xoa đầu tôi:

– Thôi, ta đi ăn cơm thôi cháu.

Tôi ngước lên nhìn ông, bỗng thấy ông tôi thật vĩ đại, to lớn. Trong lòng tôi bỗng trào dâng thứ cảm giác kì lạ. Câu chuyện ông kể đã kết thúc nhưng còn mãi trong tôi cái dư vị ngọt ngào ấy. Chiến tranh đi qua, hoà bình được lập lại nhưng tôi tin lòng yêu nước sẽ sống mãi. Và thế hệ trẻ như tôi, thế hệ được sinh ra và lớn lên trong thời bình sẽ mãi nhớ ơn những chiến công hào hùng của một thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” năm xưa. Cảm ơn ông, cảm ơn câu chuyện ông kể, đã giúp tôi trưởng thành hơn và nhận ra nhiều điều. Tôi thấy biết ơn ông ngoại, và cả những người lính Trường Sơn năm ấy. Tôi tự nhủ với lòng mình, sẽ trân trọng cuộc sống hoà bình, cố gắng trau dồi, góp phần xây dựng nước nhà trong thời đại mới.

Bài văn mẫu 5

Hôm ấy ở trên lớp, tôi được học bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Bài thơ thật hay và ý nghĩa. Nó nhanh chóng chiếm được thiện cảm trong tôi. Buổi tối, tôi lấy sách ra học thuộc bài thơ. Đọc mãi… đọc mãi… tôi bỗng ngáp dài. Tôi thiếp đi, chìm vào giấc ngủ. Và tôi đã mơ, một giấc mơ thật kì lạ.

Giấc mơ đưa tôi đến một khu rừng thật heo hút., xa lạ. Nơi đây mới vắng vẻ làm sao. Tôi giật mình ngơ ngác bởi không gian của khói đen mù mịt và những ngọn lửa cháy bập bùng nơi xa tít. Không biết đây là đâu mà xa lạ vậy? Trái tim tôi như hoang mang, lo sợ. Tôi giật bắn người khi có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi. Tôi quay người lại. Trước mắt tôi là môt chú bộ đôi ăn vận với ngôi sao trên mũ và quân hàm trên vai. Chú có nước da bánh mật khuôn mặt vuông vắn và đầy nghiêm nghị. Chú hỏi tôi với giọng nói ân cần: “Cháu đi đâu mà lạc vào rừng Trường Sơn lửa đạn? Nơi chỉ dành cho chiến tranh, cho cuộc hành quân thần tốc?”

Tôi trả lời chú: “Cháu chẳng biết đây là đâu cả. Mong chú giúp cháu trở về. Nhưng… hình như cháu đã gặp chú ở đâu rồi hay sao mà nhìn chú quen thế?”

Chú mỉm cười và nói: “Chú là Phạm Quốc Khánh, là người lính lái xe trong tiểu đội xe Trường Sơn. Nhiệm vụ của các chú là chuyên chở lương thực, vũ khí? đạn dược và cả con người nữa để chi viện cho miền Nam chống Mĩ. Cháu nhìn quang cảnh nơi đây mà xem, những cảnh rừng bạt ngàn màu xanh nay đã trở thành xơ xác. Những thân cây dưới bom đạn nằm lăn lóc. Những hố bom khổng lồ – vết tích của chiến tranh. Và cháu hãy hướng con mắt về phía đằng xa kia, cháu sẽ thấy đoàn xe của các chú đang tạm nghỉ cho các đồng chí sinh hoạt bữa tối.”

Chú ấy dẫn tôi từ từ tiến đến đoàn xe. Tôi lễ phép chào hỏi các chú bộ đội, Tất cả mọi ugười cười nói vui vẻ và ngồi xuống mời tôi cùng ăn bữa tối. Sau bữa ăn, tôi được chú Khánh đưa tôi đi quan sát những chiếc xe. Tôi nhận ra ngay cửa kính của những chiếc xe đã vỡ nát, chúng dường như biến dạng, tôi liền hỏi: “Sao xe lại không có kính và biến dạng vậy chú?”

Chú liền trả lời tôi: “Tất cả đều là hậu quả của chiến tranh. Bom Mĩ đã làm vỡ kính xe, làm những chiếc xe bị hủy hoại.”

Tôi hỏi lại ngay: “Vậy là công việc của các chú rất vất vả, nhọc nhằn. Các chú chắc hẳn gặp nhiều khó khăn lắm?”

“Đúng thế. Không có kính đi đường rất bụi, ai nhìn tóc cũng trắng như người già vậy – chú vừa nói vừa mỉm cười – nhưng các chú vẫn cùng châm điếu thuốc, nhìn khuôn mặt lấm lem của nhau mà cười.”

Và chú kể tiếp sự vất vả cùa những ngày mưa: “Những ngày có mưa mới cực. Mưa rất xối xả vào buồng lái. Các chú ai nấy đều ướt sũng hết cả. Nhưng các chú không chịu đầu hàng, các chú vẫn lái xe. Rồi mưa sẽ qua, quần áo khô lại nhanh thôi mà.” Nói đến đây tôi thấy thương các chú quá. Ngày ngày các chú vẫn kiên trì lái xe chi viện cho miền Nam bất kể mưa hay nắng. Các chú đã quá vất vả, gian lao. Tôi đang suy nghĩ thì chú nói tiếp: “Tuy vất vả nhưng chú vẫn thấy hạnh phúc khi được sống, được chiến đấu với các đồng đội của mình. Những chiếc xe vượt qua bom đạn đã hội tụ về đây. Bạn bè các chú bắt tay nhau cũng là qua ô cửa kính đã vỡ rồi. Các chú dùng bếp ăn, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Những ngày tháng mắc võng chông chênh giữa rừng, làm sao chú quên được? Các chú vẫn đi, bầu trời như rộng mở.”

Tôi đi vòng quanh ngắm nghía những chiếc xe. Xe không có đèn, không có mui, rồi thùng xe xước. Tôi hỏi chú Khánh: “Những chiếc xe đã hỏng quá rồi, chú nhỉ?”

“Ừ! Khó khăn là vậy nhưng các chú vẫn không nề hà- chú nói, ánh mắt sáng lên niềm tin và hi vọng. Các chú vẫn cứ đi, vì miền Nam, vì thống nhất đất nước. Chỉ cần quyết tâm, các chú sẽ vượt lên tất cả, hoàn thanh tốt nhiệm vụ của mình.”

Nói đến đây, tôi không cầm được lòng mình. Tôi chạy tới, ôm chầm lấy chú:” Các chú thật kiên cường! Cháu rất khâm phục các chú. Vượt lên tất cả, các chú luôn lo cho đát nước. Thất đáng tự hào vì các chú. Chúng ta nhất định sẽ thắng lợi, chú ạ.”

Chú nắm chặt lấy tay tôi:” Chắc chắn là như vậy. Đát nước sẽ sớm hòa bình cháu ạ.”

Vừa nói đến đây, tiếng gọi của mẹ làm tôi thức giấc:” Học xong chưa? Tắt điện ngủ thôi con!”

Tôi choàng tỉnh giấc. Tôi nghĩ lại về giấc mơ của mình. Tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp của bàn tay chú Khanh khi chú nắm tay tôi. Câu chuyện thật hay va cảm động.

Qua giấc mơ, tôi như hiểu thêm về những ngườ lính bộ độ cụ hồ anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Con người Việt Nam là vậy: Không bao giờ khuất phục trước chiến tranh. Tôi nghĩ về mình. Tôi cũng phải như các chú ấy, luôn cống hiến hết mình cho đất nước. Tôi sẽ cố gắng học tập để noi gương các chú, đưa dất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, như lời Bác đã dạy.

************