Top 12 # Soạn Bài Lòng Yêu Nước Vietjack Ngắn Nhất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lòng Yêu Nước Ngắn Nhất

Tài liệu hướng dẫn soạn bài Lòng yêu nước được biên soạn chi tiết giúp em hiểu được tư tưởng cơ bản của bài văn đó là: Lòng yêu nước bắt nguồn từ lòng yêu những gì gần gũi thân thuộc của quê hương.

Cùng tham khảo…

Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– I-li-a Ê-ren-bua (1891 – 1967) sinh ra trong một gia đình Do Thái giàu có.

– Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1905.

– Ông là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, nhà hoạt động xã hội của Liên Xô (trước đây), là đại biểu tối cao Xô Viết tối cao Liên Xô các nhiệm kỳ 3 – 7.

– Từ năm 1950 là Phó chủ tịch Hội đồng hòa bình Thế giới.

– Hai lần ông được tặng Giải thưởng Stalin (1942, 1948).

– Năm 1952, ông được tặng Giải thưởng Lenin vì “sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc”.

2. Tác phẩm

– Văn bản Lòng yêu nước thuộc thể loại tuỳ bút chính luận được trích từ bài báo ” Thử lửa ” viết vào cuối tháng 6 năm 1942. Đây là thời kì ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược và cũng trong thời kì này, I. Ê-ren-bua đã viết hàng loạt bài báo ca ngợi tinh thần yêu nước của quân dân Xô Viết chống chủ nghĩa Phát xít.

– Nội dung chính của bài văn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc của tác giả và những người dân Xô viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời bài văn đã nói lên một chân lí: “Lòng yêu nước ban đầy là lòng yêu những vật tầm thường nhất (…). Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

– Bố cục của văn bản gồm 2 phần:

+ Phần 1 (từ đầu đến “…lòng yêu tổ quốc”): lí giải ngọn nguồn của lòng yêu nước.

+ Phần 2 (còn lại): biểu hiện lòng yêu nước trong chiến tranh.

3. Tóm tắt Lòng yêu nước ngắn gọn nhất

Lòng yêu nước bắt đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê mình. Nỗi nhớ của người vùng Bắc, người xứ U-crai-na, người xứ Gru-di-a, người ở thành Lê-nin-grat không giống nhau nhưng lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê của họ đều trở nên lòng yêu tổ quốc. Người ta càng hiểu sâu sắc hơn về tình yêu đó khi kẻ thù xâm lược tổ quốc của mình.

Tóm tắt văn bản Lòng yêu nước

Hướng dẫn soạn bài Lòng yêu nước

Đọc – hiểu văn bản

1 – Trang 108 SGK

Nêu đại ý của bài văn.

Trả lời:

Đại ý của bài văn: Tác giả lí giải lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất, đồng thời khẳng định: lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.

2 – Trang 108 SGK

Đọc đoạn văn từ đầu đến “…lòng yêu Tổ quốc” và hãy cho biết:

a) Câu mở đầu và câu kết đoạn.

b) Tìm hiểu trình tự lập luận trong đoạn văn.

Trả lời:

a) Câu mở đầu đoạn: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… có hơi rượu mạnh.”

Câu kết đoạn: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

b) Trình tự lập luận:

– Mở đầu tác giả nêu nhận định giản dị mang tính quy luật lòng yêu nước bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, giản dị thường ngày.

+ Lòng yêu nước bắt nguồn từ những cái nhỏ tới cái lớn

– Tác giả đặt “lòng yêu nước” trong thử thách những cuộc chiến tranh vệ quốc để mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ đẹp thanh tú của quê hương:

+ Người Vùng Bắc

+ Người xứ U-crai-na

+ Người xứ Gru-di-ca

+ Người Matxcova

– Kết lại tác giả tổng kết rằng tình yêu nhà, yêu quê hương trở thành tình yêu Tổ quốc.

3 – Trang 108 SGK

Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình. Đó là những vẻ đẹp nào? Nhận xét về cách chọn lọc và miêu tả những vẻ đẹp đó.

Trả lời:

Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:

– Người vùng Bắc:

Nghĩ tới cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miền Xu- cô- nô, … những đêm tháng sáu sáng hồng.

– Người U-crai-na:

Nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vắng.

→ Nhớ những cảnh vật, những điều nhỏ bé quen thuộc trong cảnh sống yên bình.

– Người xứ Gru-di-a:

Ca tụng khí trời của núi cao, nỗi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị

– Người ở thành Le-nin-grat:

Nhớ dòng sông Ne-va rộng và đường bệ, nhớ những tượng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, nhớ phố phường

→ Nỗi nhớ, niềm tự hào về ngôn ngữ, vẻ đẹp, sự oai hùng của quê hương xứ sở.

– Người Mat-cơ-va:

Nỗi nhớ gắn với vẻ đẹp truyền thống, niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Bài viết tạo nên tổng thể hài hòa đa dạng về tình yêu của người dân Xô viết dành cho mảnh đất nơi họ sinh sống.

4 – Trang 109 SGK

Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước. Em hãy tìm trong bài câu văn thâu tóm chân lí ấy, ghi lại và học thuộc.

Trả lời

Chân lý phổ biến, sâu sắc về lòng yêu nước của bài văn: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc; và không thể sống khi mất nước”.

Soạn bài Lòng yêu nước phần Luyện tập

Câu hỏi: Nếu cần nói đến vẻ đẹp tiêu biểu về quê hương mình (hoặc địa phương em đang ở) thì em sẽ nói những gì?

Trả lời:

Nếu cần nói về vẻ đẹp quê hương mình:

– Giới thiệu về vị trí địa lý, đặc điểm về dân số, diện tích.

– Nêu truyền thống lịch sử, văn hóa.

– Điểm nổi bật về phong cảnh, con người.

– Thế mạnh trong công cuộc phát triển đất nước.

Bài văn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc của tác giả và những người dân Xô viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời bài văn đã nói lên một chân lí : “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất (…). Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

Soạn Bài: Lòng Yêu Nước

I. Tác giả (mời các em tham khảo SGK Ngữ văn 6 Tập 2)

II. Tác phẩm

* Văn bản Lòng yêu nước được trích từ bài báo Thử lửa của I-ri-a Ê-ren-bua. Tác phẩm được viết vào tháng 6 năm 1942, thời kỳ khó khăn nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược (1941 – 1945).

* Tóm tắt:

Lòng yêu nước bắt đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Nhớ đến quê hương, người dân Xô Viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê mình. Nỗi nhớ của người vùng Bắc, người xứ U – crai – na, người xứ Gru – di – a, người ở thành Lê – nin – grat không giống nhau nhưng lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê của họ đều trở thành lòng yêu tổ quốc. Người ta càng hiểu sâu sắc hơn về tình yêu đó khi kẻ thù đến xâm lược tổ quốc mình.

III. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Đại ý của bài văn:

Bài văn lý giải ngọn nguồn của lòng yêu nước. Lòng yêu nước bắt đầu từ tình yêu, từ những gì thân thuộc, gần gũi, tình yêu gia đình, xóm làng, miền quê. Và lòng yêu nước càng được bộc lộ một cách sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất khi đất nước có giặc ngoại xâm.

a) Câu mở đầu đoạn văn trên là: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh”.

Câu cuối đoạn là: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

b) Trình tự lập luận trong đoạn văn trên của tác giả rất linh hoạt, sáng tạo, kết hợp giữa diễn dịch và tổng – phân – hợp trong từng đoạn nhỏ. Ví dụ như:

Câu 1: Nửa đầu nêu ý khái quát, nửa sau tác giả lấy ví dụ cụ thể để chứng minh cho nhận định trên

Câu 3: Vừa triển khai ý của hai câu trên, tác giả vừa nêu tiếp một nhận định mới về lòng yêu quê hương, yêu đất nước.

Câu 3:

Nhớ đến quê hương, người dân Xô – viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình, đó là những vẻ đẹp:

Người vùng Bắc thì nhớ đến cánh rừng bên dòng sông Vina hay miền Xu – cu – nô, thân cây mọc là là mặt nước, nghĩ đến những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng” gọi đùa người yêu.

Người xứ U-crai-na thì nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh,…

Người xứ Gru-di-a thì ca tụng khí trời của núi cao, những tảng đá sáng rực, vị mát của nước đóng thành băng rượu vang cay sẽ tu trong bọc đựng rượu bằng da dê,…

Người ở thành Lê-nin-grat nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã lồng lên, nhớ công viên, phố phường,…

Người Mát-xcơ-va nhớ những phố cũ chạy ngoằn ngoèo, điện Krem-li, tháp cổ,…

Có thể nói, tác giả đã chọn lọc những chi tiết giản dị, miêu tả được cái thần của sự vật. Những vẻ đẹp này đã gắn liền với nét riêng của từng vùng, đồng thời, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ của những người ở vùng đó.

Câu 4:

Bài văn nêu lên một chân lý phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước. Câu văn trong bài văn thâu tóm được chân lý ấy là: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

Theo chúng tôi

Soạn Bài 27: Lòng Yêu Nước

1.Bài văn được trích từ bài báo “Thử Lửa” của nhà văn – nhà báo Nga nổi tiếng I-li-a Ê-ren-bua viết trong thời kì đầu của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân đân Liên Xô, chống phát xít Đức xâm lượng (1941-1945) với nội dung: lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất, đồng thời khẳng định; lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất trong những hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.

2.Bài văn thuyết phục người đọc bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tó chính luận và yếu tố trữ tình.

II.Hướng dẫn đọc hiểu văn bản.

1.Đại ý của bài văn

Tác giả lí giải lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu với tất cả những sự vật cụ thể và bình thường nhất, gần gũi và thân thuộc nhất; đồng thời khẳng định; lòng yêu nước được bộc lộ đầy đủ và sâu sắc nhất tỏng hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc.

2.a)Đoạn văn từ đầu đến lòng yêu tổ quốc là một đoạn văn có kết cấu chặt chẽ, trong đó.

-Câu mở đầu là:

Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yeu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mua thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.

-Câu đoạn kết là:

Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

b)Với ý chính là lí giải về lòng yêu nước, tác giả đã thể hiện một trình tự lập luận.

-Mở đầu: tác giả nêu mọt nhận định giản dị, dễ hiểu mang tính quy luạt:”lòng yêu nước ban đầu là lòng yeu nước những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của tái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh”.

-Từ nhận định đó, tác giả, đặt “lòng yêu nước” trong thử thách của cuộc chiến tranh quốc để ” mỗi công dân Xô việt nhận ra vẻ thanh tú của chốn quê hương”, cụ thể là:

+ Người vùng Bắc: nghĩ đế cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miễn xu-co-nô những đêm tháng sáu sáng hồng.

+ Người xư U-crai-na: nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh;

+ Người xứ Gru-di-a: ca tụng khí trời của núi coa, nỗi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị, những tiếng cuối cùng của câu chào tạm biệt;

+ Người ở thành Lê-nin-grat: nhớ dòng sông Nê-va, những tượng bằng đồng, phố phường;

+ Người xư mat-xco-va: nhớ như thấy lại những phố cũ, phố mới, điệm krem-li, những tháp cổ, những ánh sao đỏ…

Tác giả dùng mọt câu văn hình ảnh để chuyển ý: dòng suối đổ vào song, sông đổ vào dải trường giang vôn -ga, con gông vôn-ga đi ra bể.

-Cuối cùng, để đoạn kết, tác giả nêu mọt câu khái quát: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trên lòng yêu tổ quóc.

3.Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ về vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình, ví dụ:

+ Người vùng Bắc..( nghĩ đế cánh rừng bên dòng sông Vi-na hay miễn xu-co-nô những đêm tháng sáu sáng hồng.) Người xứ Gru-di-a(nhớ bóng thùy dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vàng ánh). Nhớ những cảnh vật rất đỗi quen thuộc, từng gắn bó với cuộc sống thanh bình.

+ Người xứ Gru-di-a (ca tụng khi trời của núi cao, nôi vui bất chợt, những lời thân ái giản dị., những tiếng cuối cùng của câu chào tạm biệt), người ở thành Lê-nin-grat nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga đường bệ, Những tường bằng đồng tạ những con chiến mã lồng lên, phố phường mà mỗi căn nhà là mọt trang lịch sử. Đó là nỗi nhớ về vẻ đẹp của ngôn ngữ, lời nói, niềm từ hào quê hương xứ sở.

+Người xư mat-xco-va: ( nhớ như thấy lại những phố cũ, phố mới, điệm krem-li, những tháp cổ, những ánh sao đỏ) nỗi nhớ gắn liền với những vẻ đẹp truyền thống và niềm tin mãnh liệt ở tương lại…

Đó là những vẻ đẹp gắn liền với nét riêng của từng vùng, tiêu biểu và có sức gợi nhất, để thể hiện sâu sắc nhất về nỗi nhờ của những người ở vùng đó. Tất cả các nỗi nhớ mang những nét cá biệt đó, khi được liệt kê trong bài tạo nên một sự tổng hòa phong phú, đa dạng về tình yêu của người dân trong cả Liên bang xô viết.

4.Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước, đó là: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc, và không thể sống khi mất nước.

III.Hướng dẫn luyện tập

Nếu cần nói đến vẻ đẹp tiêu biểu về quê hương (Hoặc địa phương em đang ở) cần chú ý:

+ Giới thiệu các yếu tố: đặc điểm địa lí, truyền thống lịch sử, văn hóa,..

+ Cảm tưởng kỉ niệm sâu sắc của em (hoặc nghe kể lại) về các yếu tố nói trên/.

IV:Tham khảo

1.I-li-na Ê-rem-bua (1891-1967) là nhà văn ưu tú, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Liên Xô, sinh tại thành phố Ki-ép trong một gia đình do Thái, cha là viên chức. Ông từng học tại trường trung học số I ở Mát-xco-va. Thời kì cách mạng 1905-1907 cậu học sinh I.Ê-ren-bua tham gia tổ chức bí mặt của Đảng Bôn-se-vich. 1908 bị bắt và bị chính quyền Nga hoàng kế án và bắt buộc phải sang nước pháp sông cuộc đời lưu vong. 1910, cho xuất bản tại Pa-ri một số tuyển thơ. Từ đó đến 1916 tiếp tục cho ra đời nhiều thơ. Thơ thời kì này vang lên âm hưởng phê phán xã hội Châu Âu phê phán chiến tranh đế quốc, chờ mong sự sụp đổ của thế giới cụ. Từ năm 1915 đến 1917 làm phóng viên và viết kí sự chiến tranh cho hai tờ báo Nga…, những lúc đầu ông không nhận thức được chân lí của Các mạng tháng Mười… mùa xuân năm 1921. I.Ê-ren-bua đi ra nước ngoài và viết tiểu thuyết châm biếm – triết lí Những cuộc hành trình kì lạ của Khu-ki-ô Khu-ren-nhi-tô và những học trò của ông năm 1922 tỏ rõ thái độ phê phán và phủ định đối với xã hội châu Âu và chiến tranh đế quốc, đã được Lê-nin đánh giá tốt..tuy nhiên,. Phải đến cuối những năm 20 và đầu những năm 30 mới là thời kì chuyển biến của nhà văn về quan điểm triết học và nghệ thuật. Đó cũng là kết quả của việc ông tích cực thâm nhập vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô Viết. Trong thời gian cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên Xô. I.Ê-ren-bua nổi tiếng với hàng nghịn bài báo và chính luận ca ngợi chủ nghĩa yêu nước Xô viết, nâng cao lòng căm thù chủ nghĩa phát xít.,khẳng định niềm tin tuyệt đối với thằng lợi của lực lượng chính nghĩa và chủ nghĩa xã hội. Những năm đại chiến II, tiểu thuyết làn sóng thứ chín và truyện vừa tuyết tan của I.Ê-ren-bua gây nên những cuộc tranh luận gay gắt.

I.Ê-ren-bua đã được nhận: giải thưởng Quốc gia 1942 với tiểu thuyết PA-ri sụp đổ năm 1941. Giải thưởng quốc gia năm 1948 với tiểu thuyế bão táo năm 1946-1947 giải thưởng Lê- nin về những cống hiến cho sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc.

(Theo Huy Lien, từ điển văn học, tập 1 NXB khoa học xã hội năm 1983)

2.”Người ta đi lên chiến đấu – như I-li-a Ê-ren-bua nói với lí trí không, không đủ. Phải có những tình cảm lớn”. Những tình cảm lớn ấy , ở I.Ê-ren-bua nhà báo, thấm vào lòng yêu người đọc, trầm trầm, kín đáo, sinh động, thật khỏe…

Nhà văn lớn Xô viết ấy, người chiến sĩ hòa bình ưu tú ấy cũng là một người bạn thân của nhân dân ta. Trong tiểu thuyết dài cũng như bài văn ngắn gần đây của ông đều có nhắc ít hay nhiều đến Việt Nam chiến đấu. Năm 1951, nhân sang dự quốc khánh Trung Quốc ở Bắc Kinh , I-li-a Ê-ren-bua có tuyên bố hết sức nhiệt tình với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam, rất ca ngợi nhân dân ta anh dũng, nhận định rõ địa vị quan trọng của kháng chiến Việt Nam đối với sự nghiệp bảo vệ hòa bình, tỏ rõ lòng tin chắc chắn ở tất thắng của Việt Nam, của hòa bình.

Lòng tin của I-li-a Ê-ren-bua, lòng tin của chúng ta hôm nay, dã trở thành sự thật huy hoàng trên đất nước chúng ta nghìn năm yêu dấu.

(Thép Mơi, câu tre việt nam, NXB chính trị quốc gia năm 2001)

Soạn Bài Lòng Yêu Nước (Chi Tiết)

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 108 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2): Nêu đại ý của bài văn Lòng yêu nước (I. Ê-ren-bua). Lời giải chi tiết:

Bài văn lí giải ngọn nguồn của lòng yêu nước. Lòng yêu nước bắt nguồn từ tình yêu những gì thân thuộc, gần gũi; tình yêu gia đình, xóm làng, miền quê. Lòng yêu nước được thể hiện và thử thách trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.

Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 108 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2): Đọc đoạn văn từ đầu đến ” lòng yêu Tổ quốc ” và hãy cho biết: a) Câu mở đầu và câu kết đoạn. b) Tìm hiểu trình tự lập luận trong đoạn văn. Lời giải chi tiết:

a) Câu mở đầu: Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh.

– Câu kết đoạn: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

b) Lập luận của đoạn văn rất linh hoạt, sáng tạo, kết hợp giữa diễn dịch và tổng – phân – hợp trong từng đoạn nhỏ. Chẳng hạn:

– Mở đầu tác giả nêu nhận định giản dị mang tính quy luật lòng yêu nước bắt nguồn từ những điều nhỏ bé, giản dị thường ngày.

+ Lòng yêu nước bắt nguồn từ những cái nhỏ tới cái lớn

– Tác giả đặt “lòng yêu nước” trong thử thách những cuộc chiến tranh vệ quốc để mỗi công dân Xô viết nhận ra vẻ đẹp thanh tú của quê hương:

+ Người Vùng Bắc

+ Người xứ U-crai-na

+ Người xứ Gru-di-ca

+ Người Matxcova

– Kết lại tác giả tổng kết rằng tình yêu nhà, yêu quê hương trở thành tình yêu Tổ quốc.

Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 108 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2): Nhớ đến quê hương, người dân Xô viết ở mỗi vùng đều nhớ đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình. Đó là những vẻ đẹp nào? Nhận xét vẻ cách chọn lọc và miêu tả những vẻ đẹp đó. Lời giải chi tiết:

Nhớ đến quê hương, người dân Xô Viết ở mỗi vùng đểu nhớ đến những vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình:

– Người vùng Bắc nhớ: Những đêm tháng sáu sáng hồng và tiếng “cô nàng “gọi đùa người yêu.

– Người xứ U-crai-na nhớ: Bóng thuỳ dương tư lự bên đường, cái bằng lặng của trưa hè vắng ánh …

– Người xứ Gru-di-a nhớ: Khí trời của núi cao, vị mát của nước đóng thành băng, rượu vang cay sẽ rong bọc đựng rượu bằng da dê..

– Người Lê-nin-grát: nhớ dòng sông Nê-va rộng và đường bệ như nước Nga, nhớ những tượng bằng đồng tạc những con chiến mã …

– Người Mát-xcơ-va nhớ: điện Krem-li, những tháp cổ ngày xưa.

* Tác giả đã chọn lọc những chi tiết giản dị, miêu tả cái thần của sự vật và đặc biệt là miêu tả được những nét đặc trưng, thơ mộng nhất của từng nơi.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 109 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2): Bài văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước. Em hãy tìm trong bài câu văn thâu tóm chân lí ấy Lời giải chi tiết:

Câu văn nêu lên một chân lí phổ biến và sâu sắc về lòng yêu nước: Lòng yêu nước, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.

Luyện tập Nếu cần nói đến vẻ đẹp tiêu biểu của quê hương mình (hoặc địa phương em đang ở) thì em sẽ nói những gì? Lời giải chi tiết:

Những ý tham khảo khi nói về vẻ đẹp của quê hương mình:

– Giới thiệu về vị trí địa lý, đặc điểm về dân số, diện tích.

– Nêu truyền thống lịch sử, văn hóa.

– Điểm nổi bật về phong cảnh, thói quen sinh hoạt của con người.

– Các giá trị văn hóa của quê hương.

– Thế mạnh trong công cuộc phát triển đất nước.

Bố cục Bố cục: 2 đoạn

– Đoạn 1 (Từ đầu … đến ” lòng yêu tổ quốc“): lí giải ngọn nguồn của lòng yêu nước.

– Đoạn 2 (Còn lại): Biểu hiện lòng yêu nước trong chiến tranh.

chúng tôi