Top 7 # Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Trích Truyện Lục Vân Tiên Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương ( Trích Truyện Lục Vân Tiên)

Ông Quán có dáng dấp của nhà nho, làu thông kinh sử, trải đời bộc trực, yêu ghét phân minh rõ ràng. Ông Quán tiêu biểu cho trí tuệ, tình cảm và tư tưởng của nhân dân Nam Bộ.

– Lẽ ghét: Điểm chung giữa các triều đại: có chung bản chất là sự suy tàn, vua chúa thì luôn đắm say tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của dân

+ Đời Trụ, Kiệt: Hoang dâm vô độ.

+ Đời U, Lệ: Đa đoan lắm chuyện rắc rối.

+ Đời Ngũ Bá,Thúc Quý: lộn xộn, chia lìa, chiến tranh liên miên…

Điệp từ Ghét: Tăng sức mạnh cảm xúc, thái độ ghét sâu sắc của tác giả.

– Lẽ thương: Đối tượng thương: Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Nguyên Lượng (Đào Tiềm, Hàn Dũ, Thầy Liêm, Lạc,… Điểm chung: họ là những bậc tiên hiền, thánh nhân, ngời sáng về tài năng và đạo đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân, nhưng đều không đạt sở nguyện.

Hai tình cảm ghét thương trong một tâm hồn nhà thơ có mối quan hệ khắng khít với nhau: bởi thương dân thương người có đức nên ông căm ghét những kẻ hại dân hại người. Tóm lại lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ tình cảm yêu thương nhân dân, mong muốn cho dân được sống yên bình hạnh phúc, những người có tài có đức có điều kiện thể hiện chí nguyện của mình.

Câu 2:

Đoạn trích nổi bật ở phép điệp và phép đối giữa hai từ “ghét” và “thương”. Chính sự đặc sắc đó đã tạo nên giá trị nghệ thuật chính cho bài thơ.

– Bài thơ đã sử dụng phép điệp từ với tần ần số sử dụng lớn: ghét 12 lần = thương 12 lần

Câu 3:

Ý nghĩa của câu “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đó là thể hiện sự biểu hiện sự trong sáng, phân minh, sâu sắc trong tâm hồn tác giả. Tình cảm ghét thương cùng xuất phát từ một trái tim đa cảm. Thương là cội nguồn của cảm xúc, ghét cũng là từ thương mà ra. Thương và ghét đan cài không thể tách rời. Thương ra thương, ghét ra ghét, không mập mờ lẫn lộn, không nhạt nhòa chung chung. Yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng. Người ta biết ghét bởi người ta biết thương. Căn nguyên của nỗi ghét là lòng thương, vì thương dân nên mới ghét kẻ hại dân.

Đó là một mối quan hệ khăng khít không thể tách rời. Càng yêu thương nhân dân, tiếc thương những người tài đức lại càng căm ghét những kẻ hại dân hại đời. Tình cảm đó rõ ràng, dứt khoát, nồng nàn, mãnh liệt. Thương ghét đều chân thành, sắc nhọn mà mộc mạc bình dị.

Luyện tập:

Câu thơ trong đoạn trích thể hiện rõ nhất toàn bổ ý nghĩa và tư tưởng của cả đoạn đó là câu: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” (phân tích thêm câu “Nửa phần lại ghét nữa phần lại thương”).

Căn nguyên của sự ghét là lòng thương, thương chính là gốc. Hai tình cảm đối lập nhưng thực chất là sự thống nhất, bổ sung và hổ trợ cho nhau. Đây chính là mối quan hệ khăng khít không thể tách rời giữa hai tình cảm ghét-thương. Tình cảm đó rõ ràng, dứt khoát, nồng nàn, mãnh liệt. Thương ghét đều chân thành, sắc nhọn mà mộc mạc bình dị. Yêu thương nhất mực, căm ghét đến điều. Tình cảm của con người miền Nam.

chúng tôi

Soạn Bài: Lẽ Ghét Thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên)

PHÂN TÍCH

Hai câu mở đầu:

Quán rằng: “Gliét việc tầm phào,

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”.

Là một cách khái quát đến cao độ thái độ tình cảm của ông Quán mà cũng là của quần chúng nhân dân trước những điều xấu xa ở đời (ghét việc tầm phào). Việc tầm phào là những việc vớ vẩn bậy bạ, vô nghĩa lí. Đặc biệt hơn là ông ghét với một tinh thần không chút khoan nhượng, ghét tới mức độ mãnh liệt nhất, triệt để nhất (ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm). Chỉ trong hai dòng thơ lục bát, từ ghét xuât hiện đến bôn lần. Cùng với cách dùng điệp từ vừa nói, nhà thơ lạidùng lối diễn đạt bồi than tăng cấp nhằm thể hiện rõ nét mức độ tột cùng thái độ căm ghét của ông Quán.

Tiếp đó là tám câu thơ triển khai một cách cụ thế ý khái quát đã nêu ở hai câu đầu. Nhà thơ chỉ rõ ông Quán ghét những người nào và vì ai mà ghét những người đó:

Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời Ngủ bá phân vân,

Chuộng bề dối trá làm dân ìihọc nhằn

Ghét đời thúc quý phân băng,

Sớm dầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Mỗi cặp câu lục bát là một tích truyện dẫn từ đời xa xưa đời nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu bên Tàu. Phải hiểu dụng ý sâu sắc của nhà thơ về cách dùng những điển cô’, điển tích ở đây là ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời). Đó cũng là cách nói thông thường của các nhà thơ cổ điển. Phải hiểu là cụ Đồ đang nói chuyện về con ngươi và cuộc đời lúc đó.

Nhà thơ nhắc đi nhắc lại một điệp khúc dân, các tích truyện đều xoáy quanh một chữ dân:

… Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

… Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

… làm dân nhọc nhằn.

… lằng nhằng rối dân.

Đúng là “tiêu chuẩn ghét” ở đây đều nhất loạt xuất phát từ quyền lợi của dân. Tất cả đều vì dân mà ghét, ghét những kẻ làm hại dân, nhũng nhiễu dân. Mượn tích chuyện xưa, cụ Đồ Chiểu nói chuyện đương thời. Hồi Thiệu Trị, Tự Đức (các vua nhà Nguyễn) trị vì, triều đình chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, đổ tiền rừng bạc biển vào việc xây dựng lâng tẩm đền đài, quan lại tham nhũng, loạn lạc liên miên, cảnh tượng đúng như bài vè “Là cái thời Tự Đức”, khắc họa “Trời ảm đạm u sầu. Cảnh hoang tàn đói rét. Dân nghèo cùng kiệt”.

Mưòi bốn câu thơ tiếp theo nêu rõ những việc, những người mà ông Quán thương:

Thương là thương đức thánh nhân,

Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.

Thương thầy Nhan Tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã dành phui pha.

Thương thầy Đổng Tử cao xa,

Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,

Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dủ chẳng may,

Sớm dăng lời biểu tối đày đi xa.

Thương thầy Liềm, Lạc đã ra,

Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân…

Đây cũng đều là những người xưa, những người có tài năng đức hạnh lớn, dốc lòng phò vua giúp nước mà không được toại chí nguyện vì thời thế không thuận và nhất là vì hiển thần không gặp được ” minh quân”. Mỗi người một cảnh ngộ, nhưng đều là những số phận long đong bất đắc chi (Khổng Tử thì lận đận, Nhan Uyển chết yếu, Gia Cát không gặp thời, Đổng Trọng Thư bế tắc, Đào Tiềm không chịu được nhục phải từ quan, Hàn Dù can vua bị tội). Cách lựa chọn chi tiết điển hình, cách diễn đạt biến hóa sinh động của nhà thơ đã gây được ấn tượng đốì với người đọc. Nói lẽ ghét thương ở đây tuy là nói thương ghét qua sử sách: “Xem qua kinh sử mấy lần. Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương” nhưng ngẫm kĩ ra ít nhiều đều phù hợp với hiện thực đất nước và nỗi lòng của cụ Đồ trước thời thế lúc bấy giờ về mặt nghệ thuật, bao trùm cả đoạn thơ là lối dùng điệp từ: từ ghét, từ thương đều được lặp lại đến 8 lần mà không hề gây nhàm chán, trái lại cách lặp lại qua mỗi câu thơ tưởng như cả tám huyết của tác giả sôi trào nơi đầu ngọn bút. Rõ ràng ớ đây không phải là chuyện đạo lí, kinh sử khô khan thuần túy. Đoạn thơ thắm đượm sắc thái trữ tình đầy cảm xúc với ngôn ngữ bình dị thông thường, với bút pháp ước lệ. Nhờ sự chân thành nên thơ rất có hồn. Nguồn cảm xúc tràn đầy, sôi nổi trong tâm hồn nhà thơ đã làm nên giọng thơ, nhịp điệu thơ riêng, dồn dập mãnh liệt một cách tâm huyết, có sức chinh phục lòng người

Soạn Văn Mẫu Bài Lẽ Ghét Thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên)

3. Phân tích tác phẩm

3.1.Ông quán bàn về lẽ ghét thương.

+ Những điều ông Quan ghét:

– Ông là một người chính nghĩa luôn biết lo cho dân cho nước mở đầu bài ông đã nêu lên quan điểm ghét thương của mình, ông rất ghét những chuyện vu vơ tầm phào không có lợi ích cho dân cho nước, một người phục vụ cho sự nghiệp của dân tộc luôn lấy tinh thần trọng nghia là chính. Hàng loạt những câu thơ tiếp theo ông đã nói về nổi ghét của mình để cho dân chúng lầm than xa chân lỡ bước, để dân nhọc nhằn, những lời ghét của ông đã bộc lộ một chế độ cai trị thối nát, ăn chơi, vô độ hoang dâm tà, không lo gì tới lợi ích của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu là một người rất chính trực ông đã nêu rõ quan điểm của mình, phê phán bọn cai trị thối tha, để khiến dân thường phải chịu những đau khổ, những điều mà ông Quán ghét đó là những gì ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân.

+ Những điều ông Quan thương:

– Ông thương cho dân chúng lầm than, ông thương những bậc hiền tài luôn phải chịu những lận đận ví dụ như Gia Cát Lượng tài trí nhưng không gặp thời vận, Đào Uyên Minh không chịu luồn cúi quan trên lùi về ở ẩn, Nguyễn Trãi cũng như vậy… toàn những người có đức và có tài những đều gặp những đau thương, ông quan thương cho những nhân vật đó, và chính bản thân ông cũng muốn phụng sự cho đất nước rất nhiều những gặp bất hạnh ông đã bị mù và phải lui về dạy học, những người tài chí phải chịu những bất hạnh chua được đóng góp công sức của mình nhiều cho đất nước đây là một mong ước rất chính đáng của những người chính nghĩa.

3.2. Cách dùng phép đối, phép điệp ở cặp từ ghét- thương trong đoạn thơ.

– Tác giả đã rất thành công trong việc nêu ra quan điểm ghét thương của mình mở đầu bài thơ là hàng loạt những lý do mà ông ghét tiếp theo cũng là những câu thơ bộc lộ những niềm xót thương của ông.

– Biện pháp đối bằng nhau đã được tác giả sử dụng nếu 10 câu thơ đầu có 8 câu ghét được tác giả sử dụng thì tiếp theo cũng 8 câu thương cũng được tác giả sử dụng, tác giả ghét vì những tên quan làm hại dân chúng để cho dân chúng đau khổ lầm than, tiếp theo tác giả lại thương cho những vị anh hùng thánh nhân có tài năng nhưng lại phải chịu những đau thương bất hạnh, tác giả cũng đau xót cho chính bản thân mình. Hàng loạt những câu thơ được sử dụng với những ý nghĩa rất rõ dàng qua đây chúng ta thấy được tinh thần vì dân vì nước của ông, một vị anh hùng cao cả của dân tộc luôn vì nước vì dân vì sự nghiệp lớn của đất nước, những phép đối lập và cả những cung bậc cảm xúc dối lập nhau được hiện lên thật đậm nét lòng căm thù của tác giả rất lớn và hững xót thương cũng rất dạt dào cảm xúc.

3.3 Ý nghĩa của câu thơ: Vì chưng hay ghét cũng là đau thương.

– Con người luôn có những cũng bậc cảm xúc riêng, và những luân lý luân thường đó là nỗi ghét và niềm thương xót, một vị anh hùng có tài đức và có tấm lòng yêu thương dân chúng cao cả do có tấm lòng thương dân nên tác giả đã căm ghét những người hại dân, đó là những điều rất bình thường trong một con người có chí khí và khí phách luôn bảo vệ cho lợi ích của nhân dân.

3.4. Đặc sắc nghệ thuật được tác giả sử dụng:

– Tác giả đã sử dụng hàng loạt những điển tích điển cố nhằm nêu cao tinh thần vì dân vì nước những lời lẽ rất rõ dàng và đầy cảm xúc, những câu thơ nói về nỗi ghét thì mang đầy cảm xúc căm giận, những câu thơ về lẽ thương thì cảm xúc lại dạt dào và đầy cảm xúc.

– Tác giả dã rất thành công trong việc sử dụng biện pháp đối trong câu nó làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.

– Ngôn ngữ mà tác giả sử dụng mang đầy cảm xúc một con người chính nghĩa không trực tiếp đấu tranh để bảo vệ cho nhân dân nhưng những lời văn của ông có giá trị tố cáo sâu sắc.

– Ngôn từ mộc mạc không trau chuốt gần gũi với nhân dân, lời nói và ngôn ngữ trong văn của ông thấm đậm chất dân tộc.

Hướng dẫn soạn văn mẫu Ngữ văn lớp 11 bài Lẽ ghé thương

A. Mục tiêu bài học

– Nhận thức được tình cảm yêu ghét phân minh mãnh liệt và tấm lòng thương dân sâu sắc của NĐC.

– Hiểu được đặc trưng cơ bản của bút pháp trữ tình NĐC: cảm xúc trữ tình_đạo đức nồng đậm, sâu sắc ; vẻ đẹp bình dị, chân chất của ngôn từ.

– Rút ra nhũng bài học đạo đức về tình cảm yêu ghét chính đáng.

a/ Hoàn cảnh sáng tác

– Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX khi ông bị mù về dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định.

b/ Thể loại và nội dung

– Thể loại: truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian

– Nội dung: xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về 1 xã hội tốt đẹp

2. Đoạn trích

a/ Đọc

b/ Xuất xứ và nội dung đoạn trích

– Nội dung: kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và 4 chàng nho sinh (Vân, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu và làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

c/ Bố cục

– Phần 1: 6 câu đầu – đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

– Phần 2: 10 câu tiếp – Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Phần 3: 14 câu còn lại – Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Phần 4: 2 câu kết – tấm lòng và tư tưởng của tác giả

II. Đọc hiểu văn bản

Đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

– Hình tượng ông Quán:

+ Kinh sử đã từng

+ Lòng hằng xót xa

+ Hỏi…phải nói

– Quan niệm thương ghét của ông Quán:

“vì chưng hay ghét cũng là hay thương” – mối quan hệ giữa thương và ghét. Thương là gốc, vì thương mà ghét.

Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Lời trực tiếp của ông Quán:

+ Ghét việc tầm phào: việc vu vơ, chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào đâu.

+ Ghét vào tận tâm: ghét đến mức tột cùng

– Đối tượng ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ: mê dâm, hoang dâm vô độ. Vua Kiệt (cuối đời Hạ), Trụ (cuối đời Thương)cho đào ao rượu, núi thịt, đào hầm để bày trò dâm loạn.

+ Đời U, Lệ: đa đoan, lắm chuyện rắc rối. U, Lệ vương đa đoan (cuối thời Tây Chu) đã sai đốt lửa hiệu trên núi Li Sơn để quân chư hầu tưởng Kinh Đo có biến cùng kéo đến ứng cứu, cốt để người đẹp Bao Tự bật cười, cho người xé lụa cả ngày để Bao Tự nghe.

+ Đời Ngũ bá, thúc quý: lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên. 5 vua chư hầu thời Xuân Thu tranh giành ngôi bá chủ gây nên cảnh binh lửa loạn lạc khiến dân lành khốn đốn.

– Nghệ thuật:

+ Điệp từ, điệp ngữ: dân, ghét đời

+ Liệt kê: các triều đại chính quyền Trung Quốc

Lẽ thương của ông Quán

– Đối tượng thương:

+ Khổng Tử: lận đận việc truyền đạo Nho.

+ Nhan Tử: hiếu học, đức độ nhưng chết sớm dở dang.

+ Gia Cát Lượng: có tài mưu lược lớn mà chí nguyện không thành, đến lúc mất đất nước vẫn bị chia ba.

+ Đổng Trọng Thư: có tài đức hơn người mà không được trọng dụng.

+ Nguyên Lượng (Đào Tiềm): cáo thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn nhưng phải chịu cảnh sống ẩn dật để giữ gìn khí tiết

+ Hàn Dũ: có tài văn chương chỉ vì dâng biểu can vua đừng quá mê tín đạo Phật mà bị đi đày…

+ Thầy Liêm, Lạc (Chu Đôn Di và Trình Di, Trình Hạo): làm quan nhưng không được tin dùng đành lui về dạy học.

– Nghệ thuật:

+ Điệp từ: thương (8 lần)

+ Liệt kê: bậc thánh nhân có tấm lòng vì dân

Tấm lòng và tư tưởng của tác giả

– Nghệ thuật:

– Cơ sở của 2 tình cảm này xuất phát từ cuộc đời, từ thực tế, từ tình cảm yêu thương nhân dân, mong muốn nhân dân được sống tự do thái bình.

– Soạn văn mẫu Ngữ văn lớp 11 bài Lẽ ghé thương –

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Trích Truyện Lục Vân Tiên Của Nguyễn Đình Chiểu

Soạn bài Lẽ ghét thương trích truyện lục vân tiên của Nguyễn Đình Chiểu

1. Tác giả, tác phẩm.

– Nguyễn Đình Chiểu( 1882-1888), tự mạnh trạch hiệu phủ ứng trai, ông là một người rất tài năng, nhưng do những năm 50 ông bị mù vì vậy ông đã về quê dạy học ở Gia Định.

2. Chủ đề của tác phầm:

– Tác phẩm đề cập đến cái thiện và cái ác cái chính nghĩa và cái phi nghĩa, đề cao tinh thân nhân nghĩa và khát vọng độc lập dân tộc.

3. Phân tích tác phẩm.

3.1.Ông quán bàn về lẽ ghét thương.

+Những điều ông Quan ghét:

– Ông là một người chính nghĩa luôn biết lo cho dân cho nước mở đầu bài ông đã nêu lên quan điểm ghét thương của mình, ông rất ghét những chuyện vu vơ tầm phào không có lợi ích cho dân cho nước, một người phục vụ cho sự nghiệp của dân tộc luôn lấy tinh thần trọng nghia là chính.

Hàng loạt những câu thơ tiếp theo ông đã nói về nổi ghét của mình để cho dân chúng lầm than xa chân lỡ bước, để dân nhọc nhằn, những lời ghét của ông đã bộc lộ một chế độ cai trị thối nát, ăn chơi, vô độ hoang dâm tà, không lo gì tới lợi ích của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu là một người rất chính trực ông đã nêu rõ quan điểm của mình, phê phán bọn cai trị thối tha, để khiến dân thường phải chịu những đau khổ, những điều mà ông Quán ghét đó là những gì ảnh hưởng tới lợi ích của nhân dân.

+ Những điều ông Quan thương:

Ông thương cho dân chúng lầm than, ông thương những bậc hiền tài luôn phải chịu những lận đận ví dụ như Gia Cát Lượng tài trí nhưng không gặp thời vận, Đào Uyên Minh không chịu luồn cúi quan trên lùi về ở ẩn, Nguyễn Trãi cũng như vậy… toàn những người có đức và có tài những đều gặp những đau thương, ông quan thương cho những nhân vật đó, và chính bản thân ông cũng muốn phụng sự cho đất nước rất nhiều những gặp bất hạnh ông đã bị mù và phải lui về dạy học, những người tài chí phải chịu những bất hạnh chua được đóng góp công sức của mình nhiều cho đất nước đây là một mong ước rất chính đáng của những người chính nghĩa.

3.2. Cách dùng phép đối, phép điệp ở cặp từ ghét- thương trong đoạn thơ.

Tác giả đã rất thành công trong việc nêu ra quan điểm ghét thương của mình mở đầu bài thơ là hàng loạt những lý do mà ông ghét tiếp theo cũng là những câu thơ bộc lộ những niềm xót thương của ông.

Biện pháp đối bằng nhau đã được tác giả sử dụng nếu 10 câu thơ đầu có 8 câu ghét được tác giả sử dụng thì tiếp theo cũng 8 câu thương cũng được tác giả sử dụng, tác giả ghét vì những tên quan làm hại dân chúng để cho dân chúng đau khổ lầm than, tiếp theo tác giả lại thương cho những vị anh hùng thánh nhân có tài năng nhưng lại phải chịu những đau thương bất hạnh, tác giả cũng đau xót cho chính bản thân mình.

Hàng loạt những câu thơ được sử dụng với những ý nghĩa rất rõ dàng qua đây chúng ta thấy được tinh thần vì dân vì nước của ông, một vị anh hùng cao cả của dân tộc luôn vì nước vì dân vì sự nghiệp lớn của đất nước, những phép đối lập và cả những cung bậc cảm xúc dối lập nhau được hiện lên thật đậm nét lòng căm thù của tác giả rất lớn và hững xót thương cũng rất dạt dào cảm xúc.

3.3 Ý nghĩa của câu thơ: Vì chưng hay ghét cũng là đau thương.

Con người luôn có những cũng bậc cảm xúc riêng, và những luân lý luân thường đó là nỗi ghét và niềm thương xót, một vị anh hùng có tài đức và có tấm lòng yêu thương dân chúng cao cả do có tấm lòng thương dân nên tác giả đã căm ghét những người hại dân, đó là những điều rất bình thường trong một con người có chí khí và khí phách luôn bảo vệ cho lợi ích của nhân dân.

3.4. Đặc sắc nghệ thuật được tác giả sử dụng:

Tác giả đã sử dụng hàng loạt những điển tích điển cố nhằm nêu cao tinh thần vì dân vì nước những lời lẽ rất rõ dàng và đầy cảm xúc, những câu thơ nói về nỗi ghét thì mang đầy cảm xúc căm giận, những câu thơ về lẽ thương thì cảm xúc lại dạt dào và đầy cảm xúc.

Tác giả dã rất thành công trong việc sử dụng biện pháp đối trong câu nó làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.

Ngôn ngữ mà tác giả sử dụng mang đầy cảm xúc một con người chính nghĩa không trực tiếp đấu tranh để bảo vệ cho nhân dân nhưng những lời văn của ông có giá trị tố cáo sâu sắc.

Ngôn từ mộc mạc không trau chuốt gần gũi với nhân dân, lời nói và ngôn ngữ trong văn của ông thấm đậm chất dân tộc.

Theo chúng tôi