Top 6 # Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Ngắn Nhất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Ngắn Nhất

Soạn bài Lẽ ghét thương ngắn nhất được soạn và chia sẻ bởi đội ngũ giáo viên dạy giỏi môn văn trên toàn quốc. Đảm bảo chính xác, chi tiết, đủ ý giúp các em dễ hiểu, dễ soạn bài Lẽ ghét thương.

Bài Lẽ ghét thương thuộc: Tuần 5 SGK Ngữ Văn 11

I. Hướng dẫn soạn bài Lẽ ghét thương

Câu 1 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

– Những đời vua mà ông Quán ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ mê dâm

+ Đời U, Lệ đa đoan

+ Đời Ngũ bá phân vân

+ Đời thúc quý

– Điểm chung giữa các triều đại: có chung bản chất là sự suy tàn, vua chúa thì luôn đắm say tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của dân.

– Những con người mà ông Quán thương: Nhan Tử, Gia Cát, Đồng Tử,…

– Điểm chung: Họ đêu là những bậc tiên hiền, thánh nhân, ngời sáng về tài năng và đạo đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân, nhưng đều không đạt sở nguyện.

Câu 2 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Câu 3 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

II. Luyện tập bài lẽ ghét thương

Câu hỏi (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1)

Câu thơ trong đoạn trích thể hiện rõ nhất toàn bổ ý nghĩa và tư tưởng của cả đoạn đó là câu:

“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” .

Căn nguyên của sự ghét là lòng thương, thương chính là gốc. Hai tình cảm đối lập nhưng thực chất là sự thống nhất, bổ sung và hổ trợ cho nhau. Câu thơ mang tư tưởng nhân đạo rất sâu sắc. Ghét không phải vì muốn ghét, vì căm tức mà lẽ ghét sinh ra từ lẽ thương. Càng thương cái tốt đẹp, nhân nghĩa bao nhiêu thì càng ghét cái bạo lực, hung tàn, ích kỷ bấy nhiêu.

III. Bố cục, Nội dung lẽ ghét thương

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (6 câu đầu): Cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

– Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Phần 3 (còn lại): Lời ông Quán bàn về lẽ thương

Nội dung: Đoạn trích Lẽ ghét thương nói lên những tình cảm yêu, ghét rất phân minh, mãnh liệt và tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.

Xem Video bài học trên YouTube

Giáo viên dạy thêm cấp 2 và 3, với kinh nghiệm dạy trực tuyến trên 5 năm ôn thi cho các bạn học sinh mất gốc, sở thích viết lách, dạy học

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Siêu Ngắn Nhất

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1): – Những điều ông Quán ghét (10 câu):

+ Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương, Ngũ Bá…

+ Điểm chung của vua chúa được nhắc tới: ăn chơi, hoang dâm vô độ, ham quyền lợi, tranh đoạt quyền lợi.

+ Căn nguyên của sự ghét do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm dân lầm than, khốn khổ.

– Lẽ thương của ông Quán (14 câu):

+ Nói tới những bậc hiền tài phải chịu lận đận, không được ước nguyện giúp đời: Khổng Tử, Nhan Uyên, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ…

+ Những trí thức nho sĩ có tài, có đức, ngay thẳng nhưng không gặp thời.

+ Tác giả tìm thấy bóng dáng mình trong ước mơ lập thân giúp đời.

Câu 2 Trả lời câu 2 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

Đoạn trích thành công khi sử dụng cặp từ ghét – thương:

– Cặp từ này được lặp lại 12 lần, sắp sóng đôi, đăng đối linh hoạt.

– Phép lặp cũng được vận dụng linh hoạt từ hai từ ghét- thương đã giúp biểu hiện nổi bật, phân minh tình cảm của tác giả.

– Thương và ghét rành rọt, không mập mờ, không nhạt nhòa, chung chung.

Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 48 SGK Ngữ văn 11 tập 1):

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít trong tâm hồn nhà thơ:

– Tác giả xót xa trước cảnh lầm than, khổ cực của nhân dân và những con người tài hoa bị vùi dập.

– Căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào cảnh ngộ éo le.

– Tình cảm yêu – ghét đan xen, nối tiếp nhau.

Luyện tập

– Câu thơ trong đoạn trích thể hiện rõ nhất toàn bổ ý nghĩa và tư tưởng của cả đoạn đó là câu:

“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” .

Căn nguyên của sự ghét là lòng thương, thương chính là gốc. Hai tình cảm đối lập nhưng thực chất là sự thống nhất, bổ sung và hổ trợ cho nhau. Câu thơ mang tư tưởng nhân đạo rất sâu sắc. Ghét không phải vì muốn ghét, vì căm tức mà lẽ ghét sinh ra từ lẽ thương. Càng thương cái tốt đẹp, nhân nghĩa bao nhiêu thì càng ghét cái bạo lực, hung tàn, ích kỷ bấy nhiêu.

Bố cục Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (từ câu 1 đến câu 6): Lời đối đáp giữa ông Quán với Tử Trực và Vân Tiên.

– Phần 2 (từ câu 7 đến câu 16): Lẽ ghét.

– Phần 3 (các câu còn lại): Lẽ thương.

ND chính

Đoạn trích Lẽ ghét thương nói lên những tình cảm yêu, ghét rất phân minh, mãnh liệt và tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.

Loigiaihay.com

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương

Soạn bài Lẽ ghét thương (Nguyễn Đình Chiểu)

Bố cục

– Phần 1 (6 câu đầu): cuộc đối thoại của ông Quán và Vân Tiên

– Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán về lẽ ghét

– Phần 3 (14 câu tiếp): lời ông Quán bàn về lẽ thương

– Phần 4 (2 câu cuối): tư tưởng và tấm lòng của tác giả

Câu 1 (Trang 48 sgk ngữ văn 11 tập 1)

– Những điều ông Quán ghét (10 câu):

+ Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương, Ngũ Bá…

+ Điểm chung của vua chúa được nhắc tới: ăn chơi, hoang dâm vô độ, ham quyền lợi, tranh đoạt quyền lợi

+ Căn nguyên của sự ghét do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm dân lầm than, khốn khổ

– Lẽ thương của ông Quán (14 câu):

+ Nói tới những bậc hiền tài phải chịu lận đận, không được ước nguyện giúp đời: Khổng Tử, Nhan Uyên, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ…

+ Những trí thức nho sĩ có tài, có đức, ngay thẳng nhưng không gặp thời

+ Tác giả tìm thấy bóng dáng mình trong ước mơ lập thân giúp đời

Câu 2 (trang 48 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Đoạn trích thành công khi sử dụng cặp từ ghét- thương

+ Cặp từ này được lặp lại 12 lần, sắp sóng đôi, đăng đối linh hoạt

+ Phép lặp cũng được vận dụng linh hoạt từ hai từ ghét- thương đã giúp biểu hiện nổi bật phân minh tình cảm của tác giả

+ Thương và ghét rành rọt, không mập mờ, không nhạt nhòa, chung chung

+ Việc lặp lại hai từ này làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương, căm ghét đạt đến tột cùng, đều nồng nhiệt

Câu 3 (trang 42 sgk ngữ văn 11 tập 1)

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít trong tâm hồn nhà thơ

+ Tác giả xót xa trước cảnh lầm than, khổ cực của nhân dân và những con người tài hoa bị vùi dập

+ Căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào cảnh ngộ éo le

+ Tình cảm yêu- ghét đan xen, nối tiếp nhau, hòa nhập vào cuộc đời, với nhân dân: đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm của tác giả

⇒ Đoạn thơ mang tính triết lý đạo đức mà không khô khan, cứng nhắc, ngược lại rất trữ tình, dạt dào cảm xúc.

Cảm xúc đó xuất phát từ cảm xúc sâu sắc và nồng đượm từ cõi tâm trong sáng, cao cả của nhà thơ, từ trái tim nặng trĩu tình đời, tình người tha thiết

Luyện tập

Câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn:

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

+ Yêu thương và căm ghét có mối quan hệ khăng khít như hai mặt của một vấn đề.

+ Càng xót thương cảnh người dân lầm than, người tài bị vùi dập thì tác giả càng căm ghét những kẻ hại dân bán nước.

+ Sự yêu ghét rạch ròi, phân minh trong trái tim của tác giả.

+ Phía sau lẽ ghét thương đó chính là tình thương dân, thương đời sâu sắc, bao la

Bài giảng: Lẽ ghét thương – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Lớp 11

(Soạn văn lớp 11) – Em hãy soạn bài Lẽ ghét thương – Trích Truyện Lục Vân Tiên(Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Minh Hoa)

trong lòng nhân dân Miền Nam. Ông là ngọn cờ đầu của văn học yêu nước Việt Nam thế kỉ XIX, là tấm gương yêu nước, thương dân, dùng ngòi bút để đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Ông như vì sao có ánh sáng khác thường, càng nhìn lâu càng thấy sáng (Phạm Văn Đồng).

* Giới thiệu vài nét về truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên”

+ Sáng tác khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù cả hai mắt, về bốc thuốc chữa bệnh cho dân ở Gia Định.

+ Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa cái thiện – cái ác.

+ Đề cao tinh thần nhân nghĩa truyền thống, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân về một xã hội tốt đẹp mà quan hệ con người với con người đều đằm thắm một tình cảm yêu thương nhân ái.

+ Tác phẩm thuộc loại truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian, được nhân dân Nam Bộ đón nhận nồng nhiệt và lưu truyền rộng rãi.

+ Ông Quán chỉ là nhân vật phụ. Nhưng đó là biểu tượng cho yêu, ghét phân minh trong sáng của quần chúng. Đoạn trích này là lời của ông Quán nói với bốn chàng Nho sinh Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm khi họ cùng uống rượu và làm thơ trong quán của ông trước khi vào trường thi.

– Thể loại: truyện thơ Nôm; thể thơ: lục bát, kết hợp kể chuyện và bộc lộ cảm xúc, tình cảm qua hành động lời nói của nhân vật.

– Đoạn trích chia làm hai phần:

+ Phần 1: Từ đầu đến “… lằng nhằng dối dân” Nội dung ghét vua chúa bạo ngược, vô đạo.

+ Phần 2: Còn lại: Thương những bậc hiền tài chịu số phận lận đận, chí lớn không thành, không được đời trọng dụng.

– Đoạn trích thể hiện rõ thái độ ghét thương của ông Quán. Đây cũng là quan điểm thái độ của nhân dân đối với vua chúa bạo ngược vô đạo, với những người hiền tài chịu số phận rủi ro.

– Ông Quán có dáng dấp nhà nho ở ẩn, làu thông kinh sử, trải mọi việc đời nhưng tính tình lại bộc trực, yêu ghét phân minh rõ ràng. Như ông Tiều, ông Ngư sau này, ông Quán chỉ thích giúp người bất hạnh, ghét kẻ tiểu nhân.

– Ông Quán tiêu biểu cho trí tụê, tư tưởng và tình cảm của nhân dân miễn Nam và của chính nhà thơ. Ông Quán là một trong những hoá thân của cụ Đồ Chiểu. Câu ” Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” nói quan hệ giữa thương và ghét. Thương là gốc. Chình vì thương mà ghét.

+ Ghét các triều đại phong kiến: “Ghét đời Kiệt Trụ….” vua chúa ăn chơi h­ưởng lạc, đắm say tửu sắc, tàn bạo bất nhân, chính sự suy tàn….không nghĩ đến dân, đến nước.

Vua Kiệt là vua cuối cùng của thời nhà Hạ, hoang phí của cải, chơi bời trác táng, Sử sách Trung Quốc có chép lại: “Xây núi thịt, rừng thịt khô, đào ao đựng rượu, đi thuyền trong ao rượu, đào hầm làm Trường dạ cung (cung đêm dài) để nam nữ tạp giao trong đó”. Vua Kiệt còn cho lập đội nữ nhạc công gồm ba vạn người, âm nhạc vang xa ba cánh đồng. ” Vua Trụ cuối nhà Thương lấy thịt người nuôi thú dữ, moi tim trung thần Hỉ Can để xem bảy khiếu. Trụ cũng đào ao chứa rượu, treo thịt làm chén. Còn U Vương thời nhà Chu say mê Bao Tự. Bao Tự vốn là một cô gái bị bỏ rơi, người ta nhặt được, nuôi lớn rồi gả cho U Vương. Từ khi được lập làm chính cung thay Khương Hậu bị phế, Bao Tự vẫn u sầu, chẳng cười bao giờ. Thấy Bao Tự nói rằng tiếng xé lụa sàn sạt nghe cũng vui tai, U Vương bèn truyền cho quan coi kho mỗi ngày phải lấy một trăm tấm lụa rồi sai các cung nữ có sức khoẻ xé lụa để Bao Tự nghe. Tuy vậy, Bao Tự vẫn không cười. U Vương bèn cho đốt đài phong hoả, thúc trống lớn như để báo hiệu kinh đô bị uy hiếp. Các nước chư hầu thấy lửa cháy rực trời, tiếng trống ầm ầm như sấm, vội mang binh mã đến cứu. Đến nơi thì chỉ thấy U Vương cùng Bao Tự ngồi trên đài cao yến ẩm tưng bừng. Nhìn cảnh quân tướng các nơi tất tả kéo đến rồi lại chưng hửng rút về, Bao Tự vỗ tay cười thích thú. Tề Hoàn Công đã nếm hết các thứ sơn hào hải vị, ăn gì cũng không còn biết ngon, cuối cùng muốn ăn thịt trẻ con hấp, đầu bếp của vua là Dịch Nha bèn giết con nhỏ của mình đem hấp cho vua ăn.

– Đời sống của ng­ười dân dưới các triều đại phong kiến bạo tàn vô cùng khốn khổ: sa hầm sẩy hang, nhọc nhằn, bị lừa dối….

Tất cả các dẫn chứng đều được rút ra trong lịch sử cổ – trung đại trung Quốc. Điều này nói lên thói quen của các nhà nho hay lấy tấm gương Trung Quốc để liên hệ, so sánh trên nhiều phương diện. : Ông Quán (người bán hàng). Ngay cái tên cũng mang lập trường của nhân dân. Người ấy không là ai nhưng lại là tất cả. Người phát ngôn cho đạo lí, hành động của nhân dân, cũng như anh hề trong các vở chèo (sân khấu dân gian).

+ Đoạn thơ sử dụng nhiều điển cố trong sử sách Trung Quốc, nhưng dễ hiểu, thể hiện rõ bản chất của các triều đại. Đó là cơ sơ của lẽ ghét sâu sắc, ghét mãnh liệt đến độ tận cùng của cảm xúc.

+ Từ ngữ giàu cảm xúc: “ghét cay ghét đắng”, “Sa sầm sẩy hang”, “lằng nhằng dối dân”…

+ Điệp ngữ dồn dập: cụm từ “ghét đời” được lặp lại 8 lần ở 10 câu liền nhau

+ Tiểu đối: hình thức đối trong câu: vì chưng hay ghét/cũng là hay thương; sa sầm/sảy hang; sớm đầu/tối đánh.

+ Khẩu ngữ: tầm phào, lằng nhằng

+ Đức Thánh nhân (Khổng Tử): Khổng Tử nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Quốc cổ xưa, đã bôn ba khắp chốn, luôn hi vọng có dịp thực hiện hoài bão cứu đời, nhưng đến đâu cũng không được tin dùng, mấy lần còn suýt bị hãm hại. Mãi đến đời nhà Hán, với sự đề xướng của Đổng Trọng Thư, học thuyết của Khổng Tử mới trở thành tư tưởng thống trị trong xã hội Trung Quốc suốt hàng nghìn năm.

+ Thầy Nhan Tử (học trò của Khổng Tử mất sớm)

+ Gia Cát Lượng (Gia Cát Lượng có tài kinh bang tế thế, túc trí đa mưu, hết lòng tận tuỵ nhưng vận hạn của nhà Hán đã hết rút cuộc sự nghiệp không thành.)

+ Đổng Tử (Đổng Trọng Thư) (Ông là người từng có công lớn trong việc xây dựng một vương triều thống nhất thời Hán Vũ Đế nhưng sau vì một lời khuyên trái tai bị nhà vua bắt giam, suýt chết, rồi bị cách hết chức vị phải về quê.)

+ Người Nguyên Lượng (Đào Tiềm – Đào Uyên Minh). (Đào Tiềm là người tưởng có thể thông qua con đường làm quan để thực hiện hoài bão “cứu giúp dân đen”, nhưng lại thấy không thể thoả hiệp với một vương triều thối nát, nên ở giữa tuổi tráng niên cũng đành từ bỏ công danh về nhà, tự cày lấy ruộng mà ăn.)

+ Hàn Dũ (Hàn Dũ, chỉ vì dám dâng biểu can vua vì quá sùng tín đạo Phật “dễ làm mê hoặc dân chúng” mà bị giáng chức và bị đày đi xa.)

+ Thầy Liêm Lạc. Chỉ thầy Chu Đôn Di và 2 học trò Trình Hạo, Trình Di, họ đều là các bậc đại Nho, yêu dân, yêu đạo, nhưng vì coi thường chữ lợi mà bị phái “Tân đảng” của Vương An Thạch xua đuổi khỏi triều đình.

– Họ đều là những bậc hiền tài nhưng phải chịu số phận lận đận, sinh ra không gặp thời nên không thực hiện được ước nguyện giúp dân, giúp đời.

– Như vậy, tình thương của ông Quán suy cho cùng là thương dân, thương đời. Cảnh ngộ của tác giả khi viết truyện “Lục Vân Tiên” ít nhiều cũng có nét giống những nhân vật lịch sử mà ông Quán đã dẫn trong đoạn trích. Là một nho sĩ, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng mơ ước lập thân để “trả nợ nước non”, nhưng ngay từ thủa mới bước chân vào đời đã gặp bao nỗi bất hạnh cực kì đau đớn. Phải chăng trong niềm thương những người hiền tài kia cũng có một phần tác giả tự thương mình.

+ Từ ngữ giàu cảm xúc: phui pha, ngùi ngùi, chẳng may…

+ Điệp ngữ dồn dập: cụm từ “thương ông”, “thương thầy” lặp lại 9 lần ở 14 câu

+ Tiểu đối: chí thời có chí/ngôi thời không ngôi; sớm dâng lời biểu/tối đày đi xa…à Đoạn văn trở nên giàu sức truyền cảm

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương “

Thể hiện quan điểm của thầy Đồ Chiểu. Kinh sử là sách kinh điển ở Trung Quốc. Nói có sách, mách có chứng đấy chứ có phải vu vơ đâu. Vì thế ghét và thương đều đúng đối tượng, ghét ai và thương ai? Nhà thơ đứng về phía nào để bộc lộ thái độ ghét thương thật quá rõ ràng. Thầy Đồ Chiểu đã dùng ngòi bút của mình để bảo vệ chính nghĩa và chiến đấu vì chính nghĩa. Những vua, chúa bạo ngược, vô đạo đọc đoạn thơ này không khỏi giật mình. Những bậc hiền tài tìm thấy sự đồng cảm có lẽ cũng rưng rưng.

– Nguyễn Đình Chiểu đứng hẳn về phía nhân dân bị áp bức mà lên án bọn vua chúa bạo ngược, bất nhân. Thương xót cho nhân dân phải chịu cảnh lầm than, khổ cực và số phận long đong của những nho sĩ hiền tài không gặp vận gặp thời. Tư tưởng lấy dân làm gốc thấm nhuần trong các điều thương, ghét.

– Tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu:

+ Thương bậc hiền tài có phần thương mình.

+ Mượn tư liệu từ sử sách xa xưa để ít nhiều nói về tình hình xã hội Việt Nam dưới chế độ nhà Nguyễn: áp bức bóc lột nhân dân, đẩy nhân dân vào cuộc sống đói khổ cùng cực.