Top 3 # Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Của Nguyễn Đình Chiểu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Lẽ Ghét Thương Của Nguyễn Đình Chiểu

Thời điểm sáng tác: Khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu bị mù về dạy học và chữa bệnh cho dân Gia Định

Thể loại: thuộc truyện thơ Nôm bác học nhưng lại mang nhiều tính chất dân gian

Nội dung: xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác với hai mục đích:

Đề cao tinh thần nhân nghĩa

Thể hiện khát vọng, lí tưởng của tác giả và của nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp. Ở đó, quan hệ giữa người với người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.

Xuất xứ: Đoạn trích nằm phần đầu của truyện, từ câu 473 đến câu 504

Nội dung: Kể về cuộc đối thoại giữa ông Quán với bốn chàng nho sinh trong quán rượu trước khi họ vào trường thi.

Bố cục: 2 đoạn

Đoạn 1: “Quán rằng …. rối dân”: ghét những tên vua chúa hại dân, hại nước.

Đoạn 2: “Thương là thương …lại thương”: thương những bậc hiền tài chịu số phận lận đận chí lớn không thành, không được trọng dụng

Từ “ghét” lập lại đến 12 lần trong toàn bộ đoạn trích, bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt tình cảm “ghét” trong tâm hồn nhân vật, cũng là của tác giả. “Ghét” đến mức tận cùng: “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”.

Sử dụng nhiều điển cố rút ra từ sách sử Trung Quốc, nhưng vẫn dễ hiểu vì tác giả đã diễn giải cụ thể.

Các điều mà ông Quán ghét:

Đời Kiệt, Tụ thì hoang dâm vô độ

Đời U, Lệ thì đa đoan, lắm chuyện rắc rối

Đời ngũ bá, thúc quí thì lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên.

Tất cả các triều đại này đều có điểm chung là chính sự suy tàn, vua chúa đắm say tửu sắc, không chăm lo đến đời sống nhân dân.

Ông Quán “ghét” tất cả các triều đại trên là vì “dân”:

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân

⇒ Qua lời của ông Quán, tác giả đã đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân mà phẩm bình lịch sử. Đó là cơ sở của tình cảm “ghét”. Thể hiện tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu.

Từ “thương” được lập lại 12 lần, nhằm nhấn mạnh tình cảm “thương” trong lòng ông Quán.

Ông “thương” những người:

Khổng Tử lận đận “Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông”

Nhan Uyên “dở dang” yểu mệnh

Gia Cát “đành phui pha” tài năng bởi không thể xoay chuyển nôi thời vận nhà Hán.

Đổng Trọng Thư chí lớn mà “không nguôi”

Đào Nguyên Lượng phải “lui về cày”

Hàn Dũ bị “đày đi xa”

Chu Đôn Di và Trình Di; Trình Hạo bị “xua đuổi”

Tất cả họ đều là những bậc hiền nhân quân tử theo kiểu mẫu nho giáo, là người có đức có tài có chí muốn hành đạo giúp đời giúp dân nhưng không đãt được được ý nguyện những con người ấy ít nhiều đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu, bởi thế tình thương ở đây chính là niềm cảm thông sâu sắc tự tấm lòng nhà thơ.

⇒ Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ cuộc đời, từ sự an bình của nhân dân mà thương, mà tiếc cho những tài năng bị các triều đại vua chúa vùi dập

Càng “thương” thì càng “ghét”. Ông Quán không hề nhập nhằng khi bàn về những điều mình thương và ghét. Những cặp câu mở đầu là ghét sau đó là thương rồi kết đoạn “Nửa phần …lại thương”.

Ông ghét đến điều mà thương cũng đến độ. “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: tình cảm “thương”, “ghét” cứ đan xen nối tiếp nhau, hoà cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân. Ghét cũng chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương ⇒ Đó là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

Tổng kết

Nội dung

Đoạn trích thể hiện tình cảm yêu ghét phân minh, tấm lòng thương dân sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu

Nghệ thuật

Đậm chất tự thuật

Sử dụng nhiều điển cố, điển tích

Cách bày tỏ cảm xúc bộc trực, mang đậm chất Nam bộ

Các thủ pháp nghệ thuật như: điệp từ, đối từ

Soạn Bài Lẽ Ghét Thương Của Nguyễn Đình Chiểu

1. Tóm tắt nội dung bài

Tình cảm yêu ghét phân minh, mãnh liệt và tấm lòng thương dân sâu sắc của tác giả

Đặc trưng cơ bản bút pháp trữ tình

1.2. Nghệ thuật

Lời thơ mộc mạc, không cầu kì, trau chuốt: sa hầm, sẩy hang, lẩm than muôn phần, lằng nhằng rối dân…

Phép đối:

Đối trong câu: nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.

Đối cả đoạn thơ: 10 câu lẽ ghét, 14 câu lẽ thương

Điêp từ thương: 12 lần

Bút pháp trữ tình: mang tính triết lý đạo đức dạt dào cảm xúc.

2. Soạn bài Lẽ ghét thương chương trình chuẩn

Câu 1: Anh (chị) hãy đọc các chú thích, tìm những đặc điểm chung của các đời nhà vua ông Quán ghét và giữa những con người mà ông Quán thương. Từ đó hãy nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm, đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu

Các đời nhà vua ông Quán ghét:

Đời Kiệt, Trụ: mê dâm, hoang dâm vô độ. Vua Kiệt (cuối đời Hạ), Trụ (cuối đời Thương) cho đào ao rượu, núi thịt, đào hầm để bày trò dâm loạn.

Đời U, Lệ: đa đoan, lắm chuyện rắc rối. U, Lệ vương đa đoan (cuối thời Tây Chu) đã sai đốt lửa hiệu trên núi Li Sơn để quân chư hầu tưởng Kinh Đo có biến cùng kéo đến ứng cứu, cốt để người đẹp Bao Tự bật cười, cho người xé lụa cả ngày để Bao Tự nghe.

Đời Ngũ bá, thúc quý: lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên. Năm vua chư hầu thời Xuân Thu tranh giành ngôi bá chủ gây nên cảnh binh lửa loạn lạc khiến dân lành khốn đốn.

⇒ Điểm chung của các triều đại: Chính sự suy tàn, vua chúa say đắm tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của dân, làm dân khổ.

Những con người mà ông Quán thương:

Khổng Tử: lận đận việc truyền đạo Nho.

Nhan Tử: hiếu học, đức độ nhưng chết sớm dở dang.

Gia Cát Lượng: có tài mưu lược lớn mà chí nguyện không thành, đến lúc mất đất nước vẫn bị chia ba.

Đổng Trọng Thư: có tài đức hơn người mà không được trọng dụng.

Nguyên Lượng (Đào Tiềm): cáo thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn nhưng phải chịu cảnh sống ẩn dật để giữ gìn khí tiết

Hàn Dũ: có tài văn chương chỉ vì dâng biểu can vua đừng quá mê tín đạo Phật mà bị đi đày…

Thầy Liêm, Lạc (Chu Đôn Di và Trình Di, Trình Hạo): làm quan nhưng không được tin dùng đành lui về dạy học.

⇒ Điểm chung: Họ là những bậc tiên hiền, thánh nhân, ngời sáng về tài năng và đạo đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân, nhưng đều không đạt sở nguyện.

Nhận xét về cơ sở của lẽ ghét thương theo quan điểm, đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu: Lẽ ghét thương đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân

Câu 2: Anh (chị) có nhận xét gì về cách dùng phép đối và phép điệp ở cặp từ ghét, thương trong đoạn thơ này? Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của phép tu từ đó.

Nhận xét: Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp từ đối nghĩa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt. (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương; ghét ghét – thương thương; lại ghét – lại thương). Phép lặp cũng như sự vận dụng linh hoạt hai từ ghét – thương đã giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả.

Giá tri nghệ thuật: Cho thấy trong trái tim tác giả, ghét và thương rành rọt, không mập mờ, lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng, đều hết sức nồng nhiệt.

Câu 3: Dựa vào cảm xúc của tác giả, hãy giải thích câu thơ ở phần đầu đoạn trích: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

3. Soạn bài Lẽ ghét thương chương trình nâng cao

Câu 1: Câu nói của nhân vật ông Quán “Vì chưng hay ghét cũng vì hay thương” cho thấy giữa ghét và thương có mối quan hệ như thế nào?

Câu nói của ông Quán cho thấy giữa thương và ghét tưởng chừng đối lập mà lại có mối quan hệ thống nhất, khăng khít với nhau, vì bởi thương dân cơ cực lầm than, các bậc hiền tài không được trọng dụng mà ghét bọn vua chúa ăn chơi, sa đọa, làm khổ nhân dân.

Câu 2: Lời ông Quán nói về kinh sử cho thấy ông ghét loại người nào, vì lí do gì? Qua đó, có thể hiện thực chất tư tưởng của ông Quán là gì?

Lời ông Quán nói về kinh sử cho thấy ông ghét những đời vua đời Kiệt, Trụ, U, Lệ, Ngũ bá, thúc quý. Vì các triều đại này chính sự suy tàn, vua chúa ăn chơi, ham mê tửu sắc, không chăm lo đến đời sống của nhân dân.

Qua đó ta thấy được thực chất tư tưởng của ông Quán là vì thương nhân dân cơ cực mà ghét những kẻ đã gây nên đau thương cho cho họ.

Câu 3: Ông Quán thương những ai, những người ấy có đặc điểm chung nào? Điều đó cho thấy ông quan tâm đến những lớp người nào trong xã hội?

Ông Quán thương Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Nguyên Lượng (Đào Tiềm), Hàn Dũ, Thầy Liêm, Lạc (Trình Hạo, Trình Di). Họ là những bậc hiền nhân, nhân cách và tài năng ngời sáng, có đức, có chí giúp đân, giúp đời nhưng đều không đạt được sở nguyện.

Điều này cho thấy ông quan tâm đến những tầng lớp trí thức, bậc hiền nhân trong xã hội.

Câu 4: Những chuyện sử sách Trung Quốc mà ông Quán nói đến cho thấy nhà thơ suy nghĩ gì khi viết Truyện Lục Vân Tiên?

Tác giả mượn những chuyện trong sử sách để nói về thực tại xã hội đương thời, muốn gửi đến độc giả những tư tưởng yêu – ghét.

Câu 5: Chỉ ra các phương tiện ngôn ngữ trong lời của ông Quán như: điệp ngữ, thành ngữ, tiểu đối, từ láy. Phân tích tác dụng của chúng trong việc tạo nên giọng điệu truyền cảm của ông Quán trong đoạn trích.

Điệp ngữ: ghét – thương (lặp lại 12 lần)

Phép đối:

Đối đoạn: 10 câu nói về lẽ ghét với 14 câu nói về lẽ thương

Tiểu đối:

Vì chưng hay ghét/ cũng vì hay thương

Sa hầm/ sẩy hang

Sớm đầu/ tối đánh

Sớm dâng lười biểu/ tối đày đi xa

Từ láy: lằng nhằng, phui pha, ngùi ngùi

Tác dụng: tăng cường độ cảm xúc, biểu hiện sự trong sáng, phân minh, sâu sắc trong tâm hồn tác giả.

Câu 1: Theo anh (chị), câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn? Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.

Câu 1:

Trong đoạn trích có câu “Vì chưng hay ghét cũng vì hay thương” đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn. Bởi thương yêu và căm ghét có mối quan hệ khăng khít với nhau. Càng xót xa trước cành nhân dân bị lầm than, thương những người tài hoa bị vùi dập. Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét những kẻ hại dân hại nước. Trong trái tim mênh mông của nhà thơ yêu ghét đều phân minh rõ ràng. Câu thơ là đỉnh cao của tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu. Vì tương dân, xót đời mà ông ghét bọn bất nhân, ông thương tiếc những bậc hiền tài không có dịp đóng góp tài năng để giúp đời. Đằng sau lẽ ghét thương chính là tình thương dân, thương đời bao la, sâu sắc.

5. Một số bài văn mẫu về Lẽ ghét thương

Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em.

Quan điểm nghệ thuật và phong cách văn chương bài Lẽ ghét thương

Quan điểm nghệ thuật và phong cách văn chương bài “lẽ ghét thương” của Nguyễn Đình Chiểu

Soạn Văn Bài: Lẽ Ghét Thương (Nguyễn Đình Chiểu)

I. Hướng dẫn Soạn bài Câu 1:

– Những điều ông Quán ghét: 10 câu thơ trong đoạn trích nói về lẽ ghét. Ghét việc tầm phào, ghét vua Trụ mê dâm, U Vương, Lệ Vương gây ra nhiều mối rắc rối, Ngũ Bá chia rẽ, đổ nát, sớm đầu tối đánh … Điểm chung của các vua chúa được nhắc đến: ăn chơi, hoang dâm vô độ, tranh quyền, đoạt lợi, không quan tâm đến chính sự đang rối ren, không nghĩ đến đời sống lầm than cực nhọc của dân. Căn nguyên của cái ghét ở đây là do lòng thương dân, vì dân, ghét những kẻ hại dân, làm cho nhân dân sa hầm sẩy hang, chịu lầm than, nhọc nhằn…

– Lẽ thương của ông Quán: gồm 14 câu, nói đến những bậc hiền tài phải chịu lận đận, không thỏa được ước nguyện giúp đời như: Khổng Tử, Nhan Uyên, Gia Cát Lượng, Đổng Trọng Thư, Hàn Dũ, … đều là những trí thức nho sĩ có tài, có đức, ngay thẳng nhưng không gặp thời. Từ chỗ tiếc thương cho những bậc tài trí, cũng là tiếc cho đời, Nguyễn Đình Chiều tìm thấy bóng dáng mình trong đó: mơ ước lập thân để giúp đời nhưng lại gặp nhiều bất hạnh.

Câu 2:

Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng cặp từ đối nghĩa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt. (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương; ghét ghét – thương thương; lại ghét – lại thương). Phép lặp cũng như sự vận dụng linh hoạt hai từ ghét – thương đã giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn tác giả. Trong trái tim tác giả, ghét và thương rành rọt, không mập mờ, lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng làm tăng cường độ của cảm xúc: yêu thương và căm ghét đều đạt đến độ tột cùng, đều hết sức nồng nhiệt.

Câu 3:

Yêu và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít không thể tách rời trong tâm hồn của nhà thơ. Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng, chí nguyện nên Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét sâu sắc những kẻ làm hại dân, hại đời, đẩy con người vào những cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan cài, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân, bởi “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

II. Luyện tập

Trong đoạn trích có câu “Vì chưng hay ghét cũng vì hay thương” đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn. Bởi thương yêu và căm ghét có mối quan hệ khăng khít với nhau. Càng xót xa trước cành nhân dân bị lầm than, thương những người tài hoa bị vùi dập. Nguyễn Đình Chiểu càng căm ghét những kẻ hại dân hại nước. Trong trái tim mênh mông của nhà thơ yêu ghét đều phân minh rõ ràng.

Hướng Dẫn Soạn Bài Lẽ Ghét Thương

trích “Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiểu I – Tác giả – Tác phẩm 1. Tác giả :

Nguyễn Đình Chiểu( 1882-1888), tự mạnh trạch hiệu phủ ứng trai, ông là một người rất tài năng, nhưng do những năm 50 ông bị mù vì vậy ông đã về quê dạy học ở Gia Định.

2.Tác phẩm

– Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX khi ông bị mù về dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định.

b/ Thể loại và nội dung

– Thể loại: truyện Nôm bác học nhưng mang nhiều tính chất dân gian

– Nội dung: xoay quanh cuộc xung đột giữa thiện và ác nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về 1 xã hội tốt đẹp

– Nội dung: kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và 4 chàng nho sinh (Vân, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu và làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

– Phần 1: 6 câu đầu – đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

– Phần 2: 10 câu tiếp – Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Phần 3: 14 câu còn lại – Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

– Phần 4: 2 câu kết – tấm lòng và tư tưởng của tác giả

II. Đọc hiểu văn bản

– Hình tượng ông Quán:

+ Kinh sử đã từng

+ Lòng hằng xót xa

+ Hỏi…phải nói

– Quan niệm thương ghét của ông Quán:

“vì chưng hay ghét cũng là hay thương” – mối quan hệ giữa thương và ghét. Thương là gốc, vì thương mà ghét.

– Lời trực tiếp của ông Quán:

+ Ghét việc tầm phào: việc vu vơ, chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào đâu.

+ Ghét vào tận tâm: ghét đến mức tột cùng

– Đối tượng ghét:

+ Đời Kiệt, Trụ: mê dâm, hoang dâm vô độ. Vua Kiệt (cuối đời Hạ), Trụ (cuối đời Thương)cho đào ao rượu, núi thịt, đào hầm để bày trò dâm loạn.

+ Đời U, Lệ: đa đoan, lắm chuyện rắc rối. U, Lệ vương đa đoan (cuối thời Tây Chu) đã sai đốt lửa hiệu trên núi Li Sơn để quân chư hầu tưởng Kinh Đo có biến cùng kéo đến ứng cứu, cốt để người đẹp Bao Tự bật cười, cho người xé lụa cả ngày để Bao Tự nghe.

+ Đời Ngũ bá, thúc quý: lộn xộn, chia lìa, đổ nát, chiến tranh liên miên. 5 vua chư hầu thời Xuân Thu tranh giành ngôi bá chủ gây nên cảnh binh lửa loạn lạc khiến dân lành khốn đốn.

+ Liệt kê: các triều đại chính quyền Trung Quốc

– Đối tượng thương:

+ Khổng Tử: lận đận việc truyền đạo Nho.

+ Nhan Tử: hiếu học, đức độ nhưng chết sớm dở dang.

+ Gia Cát Lượng: có tài mưu lược lớn mà chí nguyện không thành, đến lúc mất đất nước vẫn bị chia ba.

+ Đổng Trọng Thư: có tài đức hơn người mà không được trọng dụng.

+ Nguyên Lượng (Đào Tiềm): cáo thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn nhưng phải chịu cảnh sống ẩn dật để giữ gìn khí tiết

+ Hàn Dũ: có tài văn chương chỉ vì dâng biểu can vua đừng quá mê tín đạo Phật mà bị đi đày…

+ T hầy Liêm, Lạc (Chu Đôn Di và Trình Di, Trình Hạo): làm quan nhưng không được tin dùng đành lui về dạy học.

– Nghệ thuật:

+ Điệp từ: thương (8 lần)

+ Liệt kê: bậc thánh nhân có tấm lòng vì dân

– Nghệ thuật:

– Cơ sở của 2 tình cảm này xuất phát từ cuộc đời, từ thực tế, từ tình cảm yêu thương nhân dân, mong muốn nhân dân được sống tự do thái bình.