Top 7 # Soạn Bài Lão Hạc Tác Giả Tác Phẩm Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Hướng Dẫn Soạn Bài Lão Hạc, Tác Giả Nam Cao

I. Tìm hiểu chung:

1. Đọc: Giọng biểu cảm, phù hợp với tính cách nhân vật.

2. Tác giả – Tác phẩm:

a) Tác giả:

– Ông tên thật là Trần Hữ Tri (có tài liệu ghi là Trần Hữu Trí).

– Ông sinh năm 1915 nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29/10/1917. Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28/11/1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình) do bị đối phương phục kích. Sau khi ông mất, mộ phần bị thất lạc.

– Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.

– Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói,nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945,đấy mới thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.

– Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động; chính vì vậy, Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ “Ánh trăng lừa dối”. Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật “tàn nhẫn”, phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng.

b) Tác phẩm:

– “Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943

– PTBĐ: Tự sự + Miêu tả + Biểu cảm

– Bố cục:

+ Phần 1: Từ đầu đến “ông giáo ạ!”: Giới thiệu sự việc

+ Phần 2: Tiếp đến “Binh Tư hiểu”: Sự việc bán chó của Lão Hạc.

+ Phần 3: Còn lại: Kết thúc sự việc, Lão Hạc chết đi nhưng vẫn cố gắng giữ mảnh vườn cho con.

– Tóm tắt:

Lão Hạc vì quá túng thiếu nên đành phải bán con chó của con trai mình mua đi. Bán xong, Lão gượng cười khi nói với ông giáo nhưng rồi cuối cùng lại bật khóc khi mình đã nhẫn tâm lừa một con chó. Nhưng dù có túng thiếu đến mấy lão cũng không chịu bán đi mảnh vườn mà vợ ông đã dành dụm để lại cho con lão, lão chỉ sống qua ngày bằng khoai, hết khoai thì lại củ chuối, sung luộc,… Cuối cùng, lão Hạc vì ân hận mà chết đi, để lại đứa con và mảnh vườn cho ông giáo giúp lo liệu.

II) Phân tích:

Câu 1: Diễn biến tâm lý của lão Hạc:

– Qua nhiều lần lão Hạc nói đi nói lại ý định bán “cậu Vàng” với ông giáo, có thể thấy lão đã suy tính, đắn đo nhiều lắm. Lõa coi việc này rất hệ trọng bởi cậu Vàng là người bạn thân thiết, là kỷ vật của anh con trai mà lão rất yêu thương.

– Sau khi bán “cậu Vàng”, lão Hạc cứ day dứt, ăn năn vì nỡ đánh lừa mọt con chó. Cả đời này, ông già nhân hậu đã nỡ lừa ai.

Câu 2:

– Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát. Qua đây, chúng ta thấy số phận cơ cực đáng thương của những người nông dân nghèo ở những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.

– Nhưng xét ra, nếu lão Hạc là người ham sống, lão còn có thể sống được, thậm chí còn có thể sống lâu là đằng khác vì ông vẫn còn 30 đồng bạc và cả một mảnh vườn. Nhưng ông để 30 đồng bạc lại cho ông giáo để đề phòng sau này khi ông chết đi thì không phiền đến làng xóm, còn mảnh vườn thì ông nhất quyết để lại cho con trai. Như thế, cái chết tự nguyện này xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao, lòng tự trọng mà đáng kính.

Câu 3: Thái độ, tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc: thương lão vì lão thương con, không muốn làm phiền đến người khác khi lão chết. Cho đến chết lão Hạc vẫn thể hiện là một con người chân chất, lương thiện, trung thực, giàu lòng tự trọng đáng quý.

Câu 4:

– Trong truyện ngắn này, chỉ tiết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư có một vị trí nghệ thuật quan trọng. Nó chứng tỏ ông lão giàu lòng thường là lòng tự trọng đã đi đến quyết định cuối cùng. Nó có ý nghĩa “đánh lừa ” – chuyển ý nghĩa tốt đẹp của ông giáo và người đọc về lão Hạc sang một hướng trái ngược. “Cuộc đời quả thật cứ ngày một thêm đáng buồn”, nghĩa là nó đã ẩy những con người đáng kính như lão Hạc đến con đường cùng, nghĩa là con người lâu nay nhân hậu, giàu lòng tự trọng đến thế mà cũng bị tha hóa.

– Cái chết đau đớn của lão Hạc lại khiến cho ông giáo suy nghĩ về cuộc đời. Cuộc dời chưa hẳn đã đáng buồn bởi ngay cả ý nghĩ trước đó của mình đã không đúng, bởi còn có những con người cao quý như lão Hạc. Nhưng cuộc đời lại đáng buồn theo nghĩa: con người có nhân cách cao đẹp như lão Hạc mà không được sống, sao ông lão đáng thương, đánh kính như vậy mà phải chịu cái chết vật vã, dữ dội đến thế này.

Câu 5: câu chuyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” (ông giáo). Vì thế:

– Làm câu chuyện gần gũi, chân thực. Tác giả như kéo người đọc cùng nhập cuộc, cùng sống, chứng kiến với các nhân vật.

– Câu chuyện được dẫn dắt tự nhiên, linh hoạt.

– Giúp truyện có nhiều giọng điệu: vừa tự sự vừa trữ tình, có khi hòa lẫn triết lý sâu sắc có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực với trữ tình.

Câu 6:

– Đây là lời triết lý lẫn cảm xúc trữ tình xót xa của Nam Cao.

– Nam cao đã khẳng định một thái độ sống, một cách ứng xử mang tinh thần nhân đạo.

– Nam Cao đã nêu lên một phương pháp đúng đắn, sâu sắc khi đánh giá con người: ta cần biết tự đặt mình vào cảnh ngộ của họ thì mới có thể hiểu đúng, cảm thông đúng.

Câu 7: Cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ là vô cùng khổ cực, nghèo nàn, khốn khổ nhưng phẩm chất của họ thì lại lương thiện, chân chất, có lòng tự trọng cao và biết nghĩ đến người khác. Cuộc đời thật trớ trêu thay!

chúng tôi

Soạn Bài Lão Hạc Ngắn Gọn Hay Nhất Và Tóm Tắt Tác Phẩm Lão Hạc Lớp 8

Trước tiên để hiểu rõ nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học bất kỳ, người đọc cũng cần nắm được những thông tin cơ bản về nhà văn cũng như tác phẩm đó. Soạn bài Lão Hạc hay phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của lão Hạc chúng ta cần hiểu được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và đôi nét về nhà văn.

Nam Cao là một trong số cây bút tài hoa xuất sắc của phong trào văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -1945. Đặc biệt, ông được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”, bởi những tác phẩm của ông chủ yếu hướng về cuộc sống của những người dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Khi soạn bài Lão Hạc, chúng ta cần tìm hiểu sâu về nhà văn với nhưng thông tin như sau:

Nam Cao sinh năm 1915 và mất năm 1951, quê ông ở làng Đại Hoàng, thuộc phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Đại đa số các tác phẩm của Nam Cao đều xoay quanh hai đề tài chính, đó là người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo thời xưa. Suốt cuộc đời lao động hết mình cho nghệ thuật, cho thơ ca văn học, Nam Cao luôn ý thức trách nhiệm trong ngòi bút của việc để tạo ra những tác phẩm có giá trị với sức cống hiến lớn lao nhất.

Là nhà văn có năng khiếu xuất sắc cùng với một phong cách nghệ thuật độc đáo, Nam Cao luôn dành tình cảm chân thành của mình vào đời sống của những con người nghèo khổ trong xã hội. Ngòi bút của ông vừa tỉnh táo sắc lạnh, lại vô cùng nặng trĩu suy tư với da diết yêu thương cho những con người cùng khổ. Chất văn của tác giả Nam Cao vô cùng chân thực, dung dị và đời thường. Bởi với ông, hiện thực là trên hết. Hiện thực đầy sinh động, cụ thể và rõ nét để phục vụ cho hành trình “nghệ thuật vị nhân sinh”.

Với phong cách nghệ thuật thấm đượm ý vị triết lý mà vô cùng trữ tình, Nam Cao vốn có sở trường phân tích và diễn tả tâm lý con người. Ngôn ngữ trong các tác phẩm ông để lại nhìn chung vô cùng mộc mạc, chân chất như chính con người của ông vậy. Không chỉ thế, lối văn của Nam Cao cũng dạt dạo ý vị tinh tế, uyển chuyển và đầy sống động.

Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực và đầy cảm động về số phận một lão nông nghèo trong hoàn cảnh éo le. Nhà văn đã đi vào tận cùng ngõ ngách tâm lý nhân vật, đã thâm nhập vào những thân phận cùng khổ nhất để mà từ đó cất lên tiếng nói trân trọng, yêu thương và tấm lòng cảm thông vô hạn.

Tóm tắt tác phẩm Lão Hạc khi soạn bài Lão Hạc

Tác phẩm kể về một lão nông nghèo – lão Hạc – một người mang phẩm chất trong sạch. Vợ lão mất sớm, để lão Hạc một mình còm cõi cùng một đứa con trai. Lão nghèo đến nỗi mà tài sản duy nhất chính là mảnh vườn và “cậu vàng”- chú chó mà lão hết mực yêu thương.

Do không đủ tiền để mà cưới vợ, con trai lão Hạc chán nản làm đơn xin đi mộ phu đồn điền cao su, để lão lại cùng con chó vàng. Lão Hạc vô cùng thương con, thương con bao nhiêu nhớ con bấy nhiêu thì lão cố gắng chăm chỉ làm vườn để mà giành dụm để khi con trai lão về thì có tiền mà cưới vợ cho con.

Ấy vậy mà, đột nhiên lão ốm nặng, bao nhiêu tiền dành dụm cũng đội nón đi hết. Khi sức khỏe lão Hạc ngày một yếu đi, vườn cũng không có gì để bán, sự đói kém nghèo khổ khiến lão kiệt quệ, phải lo từng ngày, từng bữa ăn. Tài sản còn lại chỉ có cậu vàng, lão ăn năn day dứt khi quyết định bán đi chú chó mà đối với lão nó quan trọng bao nhiêu.

Nghĩ lại thân phận mình, nghĩ đến sự khổ cực đành rứt ruột bán đi cậu vàng, nghĩ đến cái sự già yêu ngày một gần, lão Hạc quyết định gửi lại mảnh vườn và số tiền còm cõi của mình cho ông giáo, và xin ít bả chó của Binh Tư để mà kết thúc cuộc sống túng quẫn. Lão Hạc chết một cách đau đớn, nhưng cái chết làm sáng người nhân phẩm cao đẹp của lão.

Cuộc sống khốn cùng nghèo đói vất vả của lão Hạc cũng chính là số phận và cuộc đời của những người nông dân trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua cuộc đời, số phận và cái chết đau đớn của lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực đời sống của những con người khốn khổ, qua đó gián tiếp bày tỏ thái độ trân trọng và tấm lòng nhân đạo của mình.

Không dừng lại ở đó, nhà văn hiện thực của chúng ta còn nêu lên một triết lý nhân sinh: con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa khi biết chia sẻ, nâng niu và trân trọng những điều đáng quý, bởi “chết trong còn hơn sống đục”. Đồng cảm với những số phận đáng thương bao nhiêu, Nam Cao lại tố cáo vạch trần bản chất thối nát của xã hội đương thời bấy nhiêu.

Để phân tích diễn biến tâm lý và tính cách nhân vật một cách tốt nhất, chúng ta cùng soạn bài Lão Hạc qua việc tìm ra sơ đồ tư duy phân tích nhân vật lão Hạc, cuộc đời và tính cách nhân vật lão Hạc thể hiện trong tác phẩm. Từ đó, có những cảm nhận về nhân vật lão Hạc qua việc trả lời những câu hỏi trong chương trình sách giáo khoa

Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao có thể được chia ra làm ba phần chính như sau:

Phần 1 – Từ đầu đến “nó thế này ông giáo ạ”: Miêu tả sự ăn năn, day dứt và dằn vặt của lão Hạc khi bán cậu Vàng.

Phần 2 – Tiếp đến “một thêm đáng buồn…: Lão Hạc gửi ông giáo tiền bạc và mảnh vườn cho cậu con trai

Phần 3 – Đoạn còn lại: Cái chết đau đớn đầy đau khổ của lão Hạc

Chú chó Vàng được lão âu yếm yêu thương gọi là cậu Vàng là người bạn tri kỉ như hình với bóng với lão. Tình cảm của lão dành cho cậu Vàng được nhà văn miêu tả cụ thể và chân thực cũng như tâm trạng buồn đau khi quyết định bán đi cậu Vàng của lão. Soạn bài Lão Hạc, chúng ta cần phân tích chi tiết này

Tình cảm của lão Hạc dành cho cậu Vàng

Trân trọng, yêu thương gọi chú chó của mình là cậu Vàng

Làm bạn với cậu Vàng để khuây khỏa và giải tỏa những nỗi nhớ con trai

Lão Hạc đối xử với cậu Vàng rất chân thành và giàu tình cảm như với con cháu của mình: cho cậu Vàng ăn trong bát, gắp thức ăn cho, cưng nựng, chửi yeu…

Tình thế khốn cùng buộc lão Hạc phải bán đi cậu Vàng

Sau trận ốm lay lắt cùng với trận bão đi qua khiến lão Hạc ngày một ốm hơn, luôn trong hoàn cảnh tính ăn từng bữa “đói lay lắt”. Khi soạn bài Lão Hạc, đấy là hoàn cảnh khiến người đọc cảm động vô cùng.

Diễn biến tâm lý sau khi lão Hạc bán cậu Vàng

Lão nông ấy cố tỏ ra vui vẻ, bình thản như không có chuyện gì, nhưng lại “đôi mắt ầng ậc nước” “mếu máo như con nít”

Lão Hạc cảm thấy ăn năn hối lỗi và tệ bạc khi lừa một con chó

Lão đau đớn đầy dằn vặt vì quá thương cậu Vàng của mình

Phải nói rằng, khi soạn bài Lão Hạc và phân tích diễn biến tâm lý của lão khi bán cậu Vàng, chúng ta thấy hình ảnh về một lão nông chân chất, đôn hậu, giàu tình cảm, một người hiền lành, và sống tình nghĩa. Bởi thế, nên lão Hạc mới thấy dằn vặt lương tâm khi nỡ lòng lừa một con chó.

Bởi tình cảnh nghèo khổ và quá túng quẫn: bần cùng, đói leo lắt lo ăn từng bữa

Lão không thể ăn vào số tiền đã tích cóp chút ít nhỏ nhoi mà vốn để dành cho cậu con trai

Lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết là cách giải thoát cho số kiếp và bảo toàn số tiền cho con

Chi tiết lão Hạc thu xếp nhờ ông Giáo già, sau đó mới tìm đến cái chết chứng tỏ rằng:

Lão nông này là người giàu lòng tự trọng và biết lo xa, không muốn cái chết của mình ảnh hưởng đến người khác

Lão không nhận sự giúp đỡ, không chấp nhận việc làm bất lương

Lão Hạc là người có phẩm cách cao quý, coi trọng nhân phẩm và danh dự hơn cả mạnh sống.

Bị bần cùng hóa, cùng cực hóa cuộc sống

Họ bị bóc lột, nghèo đói, sống khổ cực

Cuộc sống eo hẹp túng quẫn dẫn tới bế tắc kiệt quệ

Họ là những người nông dân có phẩm chất cao quý, trong sạch, lương thiện và giàu lòng yêu thương

Họ sẵn sàng đối mặt với cái chết để bảo toàn danh dự nhân phẩm

Họ là những người giàu tình cảm, tiềm tàng sức mạnh để phản kháng lại những bất công ngang trái

Phân tích nhân vật khi soạn bài Lão Hạc

Trong khi soạn bài Lão Hạc, chúng ta không thể quên phân tích nhân vật lão Hạc, bày tỏ cảm nhận về nhân vật lão Hạc cũng như những phẩm chất tốt đẹp của lão nông này.

Một lão nông ngoài sáu mươi tuổi, vợ mất sớm, một mình đơn độc với đứa con trai cũng sớm vì nghèo mà bỏ đi phu điền cao su. Chỉ có duy nhất chú chó – cậu Vàng là người bạn tâm giao tri kỉ với lão qua ngày. Cả tài sản của lão quy lại chỉ có mấy sào vườn, một túp lều và chú chó vàng mà thôi. Cái cảnh gà trống nuôi con, lần hồi làm thuê kiếm sống, để rồi nghèo khó không qua nổi mà con trai đành bỏ đi làm công nhân.

Tuổi già sống cô quạnh trong nghèo nàn đói kém, lão Hạc vẫn không để danh dự và nhân phẩm bị ảnh hưởng. Trận ốm dai dẳng kéo dài những hai tháng mười tám ngày, không một người thân đỡ đần, không một ai chăm sóc, không một chén thuốc, ấy vậy mà lão cũng leo lắt qua được. Thế những, vốn liếng dành dụm đi hết, lão lo ăn từng bữa qua ngày… Tình cảnh của lão nông ấy thật đáng thương bao nhiêu “Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một thứ gì đâu?”

Lão nông ấy bế tắc đành tìm đến cái chết để giải phóng cuộc sống túng quần này. Cuộc sống ngày một nặng nề khi miếng cơm đề nặng lên lão mỗi ngày. Lão ăn khoai, ăn củ chuối sống qua ngày. Một lão nông già cô đơn tính ăn từng bữa… Soạn bài Lão Hạc, chúng ta không khỏi cảm động những chi tiết này được Nam Cao miêu tả thật sinh động và chân thực biết bao.

Số phận mỗi một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương bao nhiêu. Họ bế tắc và tìm đến kết cục bi thảm của cái chết. Nếu như Lang Rận thắt cổ chết, Chí Phèo tự sát bằng mũi dao thì lão Hạc lại ra đi bởi bả chó…Đến chết vẫn phải đau đớn giãy giụa ” nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta làm kiếp gì cho thật sướng?” – câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau tột cùng cũng là sự bế tắc không lời giải đáp của lão Hạc.

Soạn bài Lão Hạc, người đọc còn nhận ra hình ảnh về một lão nông già đầy tình yêu thương, sự hiền lành và đôn hậu. Lão là một ông bố rất thương con, vì không có tiền mà con bỏ đi làm đồn điền cao su khiến lão canh cánh trăn trở và đau lòng. Lão thương con,lão chỉ biết khóc…. Đói khổ thế nào, lão cũng quyết giữa ba sào vườn cho con, ” lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào”.

Tất cả đều vì đứa con trai đi biền biền năm, sáu năm rồi chưa về. Một sự hi sinh âm thầm to lớn của những người bố “gà trống nuôi con”. Lòng nhân hậu, vị tha của lão nông này còn thể hiện ở tình cảm mà lão dành cho cậu Vàng. Cho nó ăn cơm, bắt rận cho nó, ăn gì cũng chia cho nó, lão tâm sự với nó như một người tri kỉ…

Cậu Vàng dù chỉ là một chú chó, nhưng đã được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng chẳng khác gì người con, người cháu của mình. Nó chính là điểm tựa, là nguồn vui, nơi san sẻ tinh thần tuổi già của lão nông ấy. Cậu Vàng chính là một phần đời sống của lão, là thú vui tuổi già duy nhất mà lão Hạc có. Ấy vậy mà, sự khắc nghiệt của cuộc sống dồn lão phải bán đi cậu Vàng. Để rồi sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, từ ăn năn day dứt đã đẩy lão Hạc xuống xuống đáy bể bi kịch, để mà chọn cái chết thảm thương và đau đớn.

Khi mà cái đói rình rập từng bữa, miếng cơm phải lo từng ngày, khi lão phải ăn củ khoai, củ chuối cho qua bữa… nhưng lão Hạc của chúng ta vẫn giữ lòng tự trọng và danh dự của mình. Soạn bài Lão Hạc, người đọc không khỏi xúc động về nhân phẩm cao quý của lão cố nông này.

Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ lão nhưng đều bị lão thẳng thừng từ chối. Bất đắc dĩ mà phải bán con chó, để rồi cuộc sống của lão sau đó chìm trong ăn nặn và hối hận. Khi phải tìm đến cái chết, lão Hạc cũng phải lo chu toàn, gửi lại mấy sào vườn cho con trai, ba mươi đồng bạc lẻ để mà “nếu có chết…gọi là của lão có tí chút” vì lão không muốn vì mình mà làm phiền đến những người hàng xóm.

Tác giả: Việt Phương

Tóm Tắt, Phân Tích Tác Giả , Tác Phẩm

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

II. Tác phẩm 1. Tìm hiểu chung a. Đề tài

– Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú bao gồm cả thơ, văn tế, câu đối.

– Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gia truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng.

– Thương vợ là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tế Xương viết về bà Tú.

b. Bố cục

– Có thể chia thành: Đề, thực, luận, kết

– Hoặc chia như sau:

+ Sáu câu thơ đầu: Hình ảnh của bà Tú

+ Hai câu thơ cuối: Nỗi lòng của tác giả

2. Tìm hiểu chi tiết a. Hình ảnh bà Tú * Hai câu thực:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”

– Công việc: buôn bán

– “Nuôi đủ năm con với một chồng”: Gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

– Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tế Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú: thân cò lầm lũi gợi liên tưởng về thân phận vất vả, cực khổ, của bà Tú cũng như những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ

– Ba từ “khi quãng vắng” đã nói lên không gian heo hút, vắng lặng chứa đầy những lo âu, nguy hiểm.

– Câu thơ dùng phép đảo ngữ (đưa từ “lặn lội” lên đầu câu) và dùng từ “thân cò” thay cho từ “con cò” càng làm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Không những thế, từ “thân cò” còn gợi nỗi ngậm ngùi về thân phận nữa. Lời thơ, vì thế, mà cũng sâu sắc hơn, thấm thìa hơn.

– Câu thứ tư làm rõ sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

+ Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề buôn bán nhỏ.

+ “Buổi đò đông” hàm chứa không phải ít những lo âu, nguy hiểm “khi quãng vắng”.

+ Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được để “nuôi đủ năm con với một chồng” phải lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt trong thời buổi khó khăn.

* Hai câu luận

“Một duyên hai nợ, âu đành phận,

Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

– Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt:

+ “Duyên” là duyên số, duyên phận, là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng.

+ “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực.

+ Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu khó vì sự ấm no, hạnh phúc của chồng con và gia đình.

+ “Âu đành phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia cảnh nhiều éo le.

b. Nỗi lòng của tác giả

– Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.”

+ Ý nghĩa của lời chửi là tác giả thầm trách bản thân mình một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng của bản thân mình. Nhưng đó lại là một lẽ thường tình trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Tú Xương dám thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, dám tự nhận khuyết điểm của mình. Từ đó cho thấy ông là một người có nhân cách đẹp.

c. Giá trị nội dung

– “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của nhà thơ đối với người vợ hiền thảo.

d. Giá trị nghệ thuật

– Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú.

– Ngôn ngữ thơ bình dị như lời ăn tiếng nói thường ngày.

– Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngày xưa).

– Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm

Tác Giả Nguyễn Du, Đôi Nét Về Tác Phẩm Truyện Kiều

Tác giả Nguyễn Du, đôi nét về tác phẩm Truyện Kiều

I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Du

1. Gia đình

– Nguyễn Du ( 1765-1820), tên tự là Tố Như, hiêụ Thanh Hiên.

– Ông sinh ra trong một gia đình quan lại có truyền thống khoa bảng.

– Quê quán :

+ Quê cha: Tiên Điền, Hà Tĩnh ⇒ vùng đất sản sinh nhiều anh kiệt

+ Quê mẹ: Từ Sơn, Bắc Ninh ⇒ cái nôi dân ca Quan họ Đây là hai vùng đất giàu truyền thống văn hóa.

⇒ Giúp Nguyễn Du có điều kiện tiếp xúc với nhiều vùng văn hóa, dùi mài kinh sử, vốn sống, vốn hiểu biết phong phú.

2. Thời đại xã hội

– Nguyễn Du sống vào thời kì loạn lạc, khủng hoảng xã hội, đất nước chia cắt

– Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn thay đổi sơn hà, nhà Nguyễn lập lại chế độ chuyên chế

⇒ Ảnh hưởng đến tư tưởng trong sáng tác của ông

3. Cuộc đời trải qua lắm gian truân

– Thời niên thiếu: sống trong sung túc trong gia đình quyền quý ở Thăng Long. Cha ông từng giữ chức Tể tướng, anh trai cùng cha khác mẹ làm tới chức Tham tụng → có điều khiện dùi mài kinh sử, hiểu biết về cuộc sống sa hoa của giới quý tộc phong kiến → dấu ấn trong sáng tác

– Do biến cố năm 1789 (Nguyễn Huệ tiêu diệt tập đoàn PK vua Lê – chúa Trịnh), Nguyễn Du phải trải qua cuộc sông mời năm phiêu bạt (từng mưu đồ chống Tây Sơn nhưng thất bại, lui về ẩn dật)

– 1802, ông ra làm quan cho nhà Nguyễn

– Nguyễn Du ốm, mất ở Huế 1820

⇒ Cuộc đời thăng trầm, đi nhiều đã giúp ông có hiểu biết sâu rộng, am hiểu văn hóa vùng miền, văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.

4. Sự nghiệp văn học

a. Sáng tác bằng chữ Hán

– 249 bài trong 3 tập:

+ Thanh Hiên thi tập: 78 bài, viết trước khi ra làm quan ⇒ ông gửi vào tập thơ này nỗi cô đơn bế tắc của một con người bơ vơ, lạc hướng giữa dâu bể thời đại

+ Nam trung tạp ngâm: 40 bài, viết trong thời gian làm quan ⇒ Biểu hiện tâm trạng buồn đau nhưng đồng thời thể hiện quan sát về cuộc đời, xã hội

+ Bắc hành tạp lục: 131 bài viết trong thời gian đi sứ

⇒ Ca ngợi nhân cách cao cả và phê phán nhân vật phản diện; phê phán xã hội phong kiến và cảm thông với số phận bé nhỏ

b. Sáng tác bằng chữ Nôm

– Đoạn trường tân thanh(TK): Gồm 3254 câu thơ dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn

⇒ Thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận của con người tài hoa nhưng bạc phận, là một truyện Nôm có giá trị nhân văn sâu sắc.

– Văn chiêu hồn: Viết theo thể song thất lục bát. Ông viết để chiêu hồn cho những sinh linh thuộc nhiều tầng lớp khác nhau nhưng tấm lòng nhân ái của nhà thơ vẫn luôn hướng về những thân phận nhỏ bé, dưới đáy.

II. Đôi nét về tác phẩm Truyện Kiều

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 (khoảng 1805-1809)

– Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có dựa trên cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là vô cùng lớn, mang đến sự thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm

– Thể loại: Truyện thơ Nôm, 3254 câu thơ lục bát

2. Bố cục

3 phần:

– Phần 1: Gặp gỡ và đính ước

– Phần 2: Gia biến và lưu lạc

– Phần 3: Đoàn tụ

3. Giá trị nội dung

– Giá trị hiện thực

+ Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực hắc ám chà đạp lên quyền sống con người

+ Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những người bị áp bức, đặc biệt là người phụ nữ

– Giá trị nhân đạo

+ Là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất cao đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa,…đề cao vẻ đẹp, ước mơ và khát vọng chân chính của con người

+ Nguyễn Du bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc trước những khổ đau của con người, ông xót thương cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc mà phải lâm vào cảnh bị đọa đầy

+ Tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của những con người lương thiện

4. Giá trị nghệ thuật

– Về ngôn ngữ: ngôn ngữ giàu và đẹp, đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ văn chương

– Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Ngôn ngữ kể chuyện có ba hình thức là trực tiếp, gián tiếp và nửa trực tiếp, nhân vật xuất hiện với cả con người hành động và con người cảm nghĩ

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật đạt đến thành công vamg dội, cách xây dựng nhân vật chính thường được miêu tả bằng lối ước lệ, tượng trưng; nhân vật phản diện thường được khắc họa theo lối hiện thực hóa

– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, có những bức tranh thiên nhiên tả cảnh ngụ tình đặc sắc

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k6: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Các bài Soạn văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi sgk Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn dễ dàng soạn bài Ngữ Văn 9 hơn.

tac-gia-tac-pham-lop-9.jsp