Top 4 # Soạn Bài Lão Hạc Sgk Văn 8 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lão Hạc Trang 38 Sgk Văn Lớp 8

1. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán cậu vàngMặc dù rất yêu thương con chó Vàng, nhưng lảo Hạc cũng phảibán đi vì không nuôi nối nó và sợ tiêu lạm vào số tiền lâu nay lão dành dụm cho đứa con trai, đứa con vì nghèo mà phẫn chí bỏ làng đi:Nỗi đau của người cha bất hạnh này là ở chỗ đó.Lão Hạc toan tính mãi, dằn vặt mãi và do dự mãi mới quyết định gọi người tới bán.Khi chuyện trò với ông giáo về việc bán con chó Vàng, lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhãn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo uể một bên và cái miệng móm mém của lão mếu máo như con nít. Lão hu hu khóc… Lão Hạc cứ day dứt, ăn năn mãi vì già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Nhũng chi tiết miêu tả bộ dạng, cứ chỉ của lão lúc ấy cho thấy nội tâm của lão đang đau đớn, xót xa, ân hận đến cùng cực.Tình cảm của lão Hạc đối với con chó Vàng là sự thể hiện gián tiẽp tình yêu thương sâu nặng của lão đối với con trai. Từ ngày anh con trai phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc ở nhà đợi con về luôn mang tâm trạng day dứt vì đã không cho con bán vườn lấy vợ. Lão ân hận thấy mình có lỗi vì không lo liệu nổi cho con. Lão cố tâm dành dụm đế khỏa lấp mặc cảm ấy! Do vậy, dù rất thương cậu Vàng nhưng đến nỗi này thì lão cũng phải bán, vì không muốn tiêu phạm vào đồng tiền và mảnh vườn mà lão cố giữ cả cho con trai. Việc phải bán cậu Vàng cho thấy tình thương con của lão Hạc sâu nặng biết bao.2. Nguyên nhân cái chết của lão Hạc. Suy nghĩ về tình cảnh cùng đường và về bán chất, tính cách của lão qua những điểu lão thu xếp nhờ cậy “ông giáo” rồi sau đó tìm đến cái chếtTình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ ớ những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.Nhưng suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì con. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác.Qua những điều lão Hạc thu xếp và nhờ cậy ” ông Giáo ” , ta thấy lão là người cấn thận, chu đáo, hay suy nghĩ và nhận biết rõ tình cảnh của mình khi đó. Lão đau đáu một nỗi lo không giừ được ba sào vườn cho con trai. Lão tự trọng, không muốn gây phiền hà cho lối xóm bà con nên đã âm thầm lo liệu mọi đường cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”.3. Thái độ, tình cảm của “ông giáo” dối với lão HạcKhi nghe lão Hạc kể chuyện, “ông giáo” ái ngại cho tình cảnh của lão. Ông an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giấu giếm vợ ngấm ngầm giúp dỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khi hiểu lầm lão Hạc làm liều, ông giáo hơi thất vọng, cảm thấy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm dáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lảo Hạc.Đến lúc hiểu ra đó chĩ là sự hiểu lầm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ống giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vẫn không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại số tiền và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.4. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bả chó đế định bắt một con chó hàng xóm thì “ông giáo” cảm thấy “cuộc đời quá thật đáng buồn”. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn cùa lảo Hạc ”ông giáo” đã nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.Ông giáo cảm thấy: “Cuộc đời quá thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn” vì lâu nay ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc, đâu ngờ “bần cùng sinh dạo tặc” “đến lúc cùng Lão cũng có thể làm liều như ai hết”.Nhưng đó chỉ là hiểu lầm. Lão Hạc xin bả chó là đế tự kết liều dời mình. Cái chết đột ngột càng làm sáng đẹp thêm những phẩm chất đáng quý của lão. Vì vậy, ông giáo cảm thấy: “Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn” ( vì cuộc đời vẫn còn những con người đáng quý thà chịu chết vật vã đau đớn mà không làm phiền lụy con cái, láng giềng). Sở dĩ ông giáo lại nghĩ: “nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là vì trong cuộc đời ấy, những con người lương thiện như lão Hạc không có đất sống, cái giá của người gìn giữ nhân cách đã được nhà văn thế hiện một cách thành công.5. Đặc sắc nghệ thuật của truyệna) Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật lão Hạc:Nhà văn Nam Cao rât điêu luyện trong việc xây dựng nhân vật lão Hạc. Bằng phương pháp đối lập, nhà văn tạo vé bề ngoài cho lão Hạc dường như lẩm cấm, gàn dở, đôi lúc bị nghi ngờ là phường “đâm heo thuốc chó” nữa. nhưng bên trong lão lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn cao quý, đáng kính trọng. b) Cách dựng truyệnNhà văn dựng truyện chân thực và sinh động. Ông dẫn người đọc vào mạch truyện đầy khéo léo, bất ngờ. Càng lúc truyện càng căng thẳng qua đó, bộc lộ tính cách nhân vật. Anh con trai vì nghèo đói bỏ làng ra đồn điền cao su kiếm tiền Lão Hạc ở nhà chăm sóc con chó của con như một kỉ vật. Rồi do bệnh tật, thất nghiệp, đói kém, lão phải bán chó. Vẫn đói kém do sợ tiêu mất tiền dành dụm, mất vườn của con nên lão gửi tiền và văn tự bán vườn cho ông giáo. Lão xin bả chó của Binh Tu để tự tử. Cái chết đột ngột của lão để giải quyết mâu thuẫn giữa tình thương con và sự đói nghèo. Việc lão xin bả chó của Binh Tư tạo sự hiẽu lầm hấp dẫn làm cho hình ảnh lão Hạc sau đó, khi mọi việc được hiểu đúng, sáng đẹp hơn biết bao lần…c) Ngôn ngữ của truyệnTruyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng. Nét nối bật là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.6. Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.Suy nghĩ cúa ông giáo thế hiện cách nhìn nhận người nông dân của nhà văn Nam Cao. Theo nhà văn, chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá bằng đôi mắt của tình thương và lòng tin mới thấy hết được bản chất tôt đẹp cùa họ. Đây đúng là một quan điểm tiến bộ, đúng đắn và sâu sắc, đầy tính nhân văn của nhà vàn Nam Cao.7.Cảm nhận về cuộc đời và tính cách người nông dân xã hội cũ qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão HạcTừ đoạn trích Tức nước vờ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, người đọc thấy được tình cảnh túng quẫn, nghèo khổ cùng đường của tầng lớp nông bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến.Lấp lánh trong từng trang văn ấy là vẻ đẹp tâm hồn cao quý. lòng tận tụy hi sinh vì người thân ruột thịt của con người lam lũ, cùng khổ nhưng rất đáng kính trọng ấy.Nếu vẻ đẹp tâm hồn của chị Dậu là sức mạnh cua tình thương yêu, của tiềm năng phản kháng thì vẻ đẹp của lão Hạc là vẻ đẹp của nhân cách: của hoa sen nở cánh trong bùn, của con cò lộn cố xuống ao dù chết cũng muốn chết trong sạch.

Soạn Bài Lão Hạc Trang 38 Sgk Ngữ Văn 8

Soạn bài Lão Hạc trang 38 SGK ngữ văn 8

Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.

1. Diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán cậu vàngMặc dù rất yêu thương con chó Vàng, nhưng lảo Hạc cũng phảibán đi vì không nuôi nối nó và sợ tiêu lạm vào số tiền lâu nay lão dành dụm cho đứa con trai, đứa con vì nghèo mà phẫn chí bỏ làng đi:Nỗi đau của người cha bất hạnh này là ở chỗ đó.Lão Hạc toan tính mãi, dằn vặt mãi và do dự mãi mới quyết định gọi người tới bán.Khi chuyện trò với ông giáo về việc bán con chó Vàng, lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước… Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhãn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo uể một bên và cái miệng móm mém của lão mếu máo như con nít. Lão hu hu khóc… Lão Hạc cứ day dứt, ăn năn mãi vì già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Nhũng chi tiết miêu tả bộ dạng, cứ chỉ của lão lúc ấy cho thấy nội tâm của lão đang đau đớn, xót xa, ân hận đến cùng cực.Tình cảm của lão Hạc đối với con chó Vàng là sự thể hiện gián tiẽp tình yêu thương sâu nặng của lão đối với con trai. Từ ngày anh con trai phẫn chí bỏ nhà đi phu đồn điền cao su vì không có tiền cưới vợ, lão Hạc ở nhà đợi con về luôn mang tâm trạng day dứt vì đã không cho con bán vườn lấy vợ. Lão ân hận thấy mình có lỗi vì không lo liệu nổi cho con. Lão cố tâm dành dụm đế khỏa lấp mặc cảm ấy! Do vậy, dù rất thương cậu Vàng nhưng đến nỗi này thì lão cũng phải bán, vì không muốn tiêu phạm vào đồng tiền và mảnh vườn mà lão cố giữ cả cho con trai. Việc phải bán cậu Vàng cho thấy tình thương con của lão Hạc sâu nặng biết bao.2. Nguyên nhân cái chết của lão Hạc. Suy nghĩ về tình cảnh cùng đường và về bán chất, tính cách của lão qua những điểu lão thu xếp nhờ cậy “ông giáo” rồi sau đó tìm đến cái chếtTình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ ớ những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám.Nhưng suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì con. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác.Qua những điều lão Hạc thu xếp và nhờ cậy ” ông Giáo ” , ta thấy lão là người cấn thận, chu đáo, hay suy nghĩ và nhận biết rõ tình cảnh của mình khi đó. Lão đau đáu một nỗi lo không giừ được ba sào vườn cho con trai. Lão tự trọng, không muốn gây phiền hà cho lối xóm bà con nên đã âm thầm lo liệu mọi đường cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”.3. Thái độ, tình cảm của “ông giáo” dối với lão HạcKhi nghe lão Hạc kể chuyện, “ông giáo” ái ngại cho tình cảnh của lão. Ông an ủi và sau đó nhận lời nhờ cậy của lão. Nhiều lúc ông đã giấu giếm vợ ngấm ngầm giúp dỡ cho người láng giềng tội nghiệp này. Khi hiểu lầm lão Hạc làm liều, ông giáo hơi thất vọng, cảm thấy cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm dáng buồn. Vì xưa nay, ông vẫn tin vào nhân cách của lảo Hạc.Đến lúc hiểu ra đó chĩ là sự hiểu lầm. Cái chết của lão Hạc càng làm sáng tỏ thêm vẻ đẹp tâm hồn của lão. Ống giáo thấy “cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn” vì cuộc đời vẫn không làm mất đi niềm tin của ông vào bản chất lương thiện của người nông dân lao động. Ông giáo tự hứa trao lại số tiền và ba sào vườn lão đã gửi gắm cho con trai của lão.4. Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin bả chó đế định bắt một con chó hàng xóm thì “ông giáo” cảm thấy “cuộc đời quá thật đáng buồn”. Nhưng khi chứng kiến cái chết đau đớn cùa lảo Hạc ”ông giáo” đã nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”.Ông giáo cảm thấy: “Cuộc đời quá thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn” vì lâu nay ông vẫn tin vào nhân cách của lão Hạc, đâu ngờ “bần cùng sinh dạo tặc” “đến lúc cùng Lão cũng có thể làm liều như ai hết”.Nhưng đó chỉ là hiểu lầm. Lão Hạc xin bả chó là đế tự kết liều dời mình. Cái chết đột ngột càng làm sáng đẹp thêm những phẩm chất đáng quý của lão. Vì vậy, ông giáo cảm thấy: “Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn” ( vì cuộc đời vẫn còn những con người đáng quý thà chịu chết vật vã đau đớn mà không làm phiền lụy con cái, láng giềng). Sở dĩ ông giáo lại nghĩ: “nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác” là vì trong cuộc đời ấy, những con người lương thiện như lão Hạc không có đất sống, cái giá của người gìn giữ nhân cách đã được nhà văn thế hiện một cách thành công.5. Đặc sắc nghệ thuật của truyệna) Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật lão Hạc:Nhà văn Nam Cao rât điêu luyện trong việc xây dựng nhân vật lão Hạc. Bằng phương pháp đối lập, nhà văn tạo vé bề ngoài cho lão Hạc dường như lẩm cấm, gàn dở, đôi lúc bị nghi ngờ là phường “đâm heo thuốc chó” nữa. nhưng bên trong lão lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn cao quý, đáng kính trọng. b) Cách dựng truyệnNhà văn dựng truyện chân thực và sinh động. Ông dẫn người đọc vào mạch truyện đầy khéo léo, bất ngờ. Càng lúc truyện càng căng thẳng qua đó, bộc lộ tính cách nhân vật. Anh con trai vì nghèo đói bỏ làng ra đồn điền cao su kiếm tiền Lão Hạc ở nhà chăm sóc con chó của con như một kỉ vật. Rồi do bệnh tật, thất nghiệp, đói kém, lão phải bán chó. Vẫn đói kém do sợ tiêu mất tiền dành dụm, mất vườn của con nên lão gửi tiền và văn tự bán vườn cho ông giáo. Lão xin bả chó của Binh Tu để tự tử. Cái chết đột ngột của lão để giải quyết mâu thuẫn giữa tình thương con và sự đói nghèo. Việc lão xin bả chó của Binh Tư tạo sự hiẽu lầm hấp dẫn làm cho hình ảnh lão Hạc sau đó, khi mọi việc được hiểu đúng, sáng đẹp hơn biết bao lần…c) Ngôn ngữ của truyệnTruyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng. Nét nối bật là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trữ tình mang cả tình cảm, suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật.6. Sau khi vợ nhận xét không hay về lão Hạc, ông giáo suy nghĩ: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.Suy nghĩ cúa ông giáo thế hiện cách nhìn nhận người nông dân của nhà văn Nam Cao. Theo nhà văn, chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá bằng đôi mắt của tình thương và lòng tin mới thấy hết được bản chất tôt đẹp cùa họ. Đây đúng là một quan điểm tiến bộ, đúng đắn và sâu sắc, đầy tính nhân văn của nhà vàn Nam Cao.7.Cảm nhận về cuộc đời và tính cách người nông dân xã hội cũ qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão HạcTừ đoạn trích Tức nước vờ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, người đọc thấy được tình cảnh túng quẫn, nghèo khổ cùng đường của tầng lớp nông bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến.Lấp lánh trong từng trang văn ấy là vẻ đẹp tâm hồn cao quý. lòng tận tụy hi sinh vì người thân ruột thịt của con người lam lũ, cùng khổ nhưng rất đáng kính trọng ấy.Nếu vẻ đẹp tâm hồn của chị Dậu là sức mạnh cua tình thương yêu, của tiềm năng phản kháng thì vẻ đẹp của lão Hạc là vẻ đẹp của nhân cách: của hoa sen nở cánh trong bùn, của con cò lộn cố xuống ao dù chết cũng muốn chết trong sạch.

Soạn Bài: Lão Hạc (48 Sgk Ngữ Văn 8 Tập 1)

Bố cục

– Phần 1 – từ đầu … thế này ông giáo ạ: Sự dằn vặt, day dứt của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng.

– Phần 2 – tiếp theo … một thêm đáng buồn: Lão Hạc thu xếp mọi việc, gửi gắm và nhờ cậy ông giáo.

– Phần 3 – còn lại: Lão Hạc ăn bả chó để tự kết liễu đời mình.

Nội dung bài học

Truyện ngắn Lão Hạc đã phản ánh một cách chân thực, cảm động số phận nghèo khổ, đau thương của người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ, đồng thời cũng thể hiện những phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho chúng ta thấy tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với những người nông dân và tài năng văn học xuất sắc của nhà văn Nam Cao, đặc biệt trong cách kể chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật.

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

+ Lão Hạc cảm thấy mình thật đốn mạt, lừa dối cả một con chó. Lão đau đớn, day dứt, xót thương cho số phận của con Vàng.

+ Điều đó đã chứng tỏ rằng lão Hạc là người có trái tim giàu tình yêu thương, giàu tình cảm.

Câu 2:

+ Nguyên nhân dẫn đến cái chết: Lão Hạc chết vì nếu còn sống thì ắt sẽ phải tiêu đến tiền để dành cho con và sẽ phạm vào mảnh vườn của cậu con trai.

+ Lão Hạc đang sống trong tình cảnh túng quẫn, lay lắt và khổ sở.

+ Tính cách: lão vô rất yêu thương cậu con trai, lại là người có lòng tự trọng cao, không muốn nhờ cậy và phiền hà đến người khác.

Câu 3:

Thái độ và tình cảm của ông giáo đối với lão Hạc đã có những sự thay đổi, từ khó hiểu đến thờ ơ, thấu hiểu, xót thương và cảm thấy trân trọng.

Câu 4:

Ý nghĩ của nhân vật tôi:

+ Cuộc đời này đáng buồn ở chỗ nó khiến con người ta phải sống khổ sống sở, sống lay lắt, héo mòn.

+ Nhưng ít ra, trong cuộc đời còn có những con người như lão Hạc, có phẩm chất cao quý, giàu yêu thương và tự trọng.

Câu 5:

+ Cái hay của truyện là đã diễn tả rõ nhất ở các tình huống bất ngờ (lão Hạc bán con chó Vàng và lão Hạc tự kết liễu đời mình) và cách xây dựng nhân vật.

+ Việc xây dựng tình huống bất ngờ khiến phẩm chất đạo đức của lão Hạc được làm bật nổi.

+ Nhân vật hiện lên với nét tính cách điển hình thông qua điểm nhìn từ một nhân vật khác,

+ Sử dụng ngôi kể thứ nhất có tác dụng giúp câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn, nhân vật kể chuyện cũng dễ dàng thể hiện cảm xúc suy nghĩ với mục đích thể hiện tư tưởng của tác giả.

Câu 6:

Ý nghĩ của nhân vật tôi “Chao ôi…. ích kỉ che lấp mất”:

+ Không thể phán xét người nào đó chỉ bằng những điều mà ta nhìn thấy bên ngoài, ta cần phải cố gắng mà tìm hiểu họ.

+ Muốn hiểu và cảm thông cho người khác, ta cũng cần phải biết bỏ đi lòng ích kỉ của riêng mình.

+ Cuộc sống hiện thực đầy nghiệt ngã này đã khiến sự cảm thông và tình yêu thương trong mỗi người bị rút cạn dần đi.

Câu 7:

Qua 2 truyện ngắn trên, người nông dân trong xã hội cũ được hiện lên:

+ Cuộc sống túng quẫn, khó khăn đến tột cùng.

+ Nhưng họ vẫn có phẩm chất tốt đẹp, giàu đức hi sinh, ngời sáng, giàu tình yêu thương, không bị tha hóa bởi cái ăn.

Bản 2/ Soạn bài: Lão Hạc (siêu ngắn)

Bố cục

Chia thành ba phần:

– Phần 1 – từ đầu…ông giáo ạ: Sự dằn vặt, day dứt của lão Hạc sau khi bán đi con Vàng.

– Phần 2 – tiếp… thêm đáng buồn: Lão Hạc gửi gắm mảnh vườn, tiền bạc cho ông giáo và nhờ ông trông nom nhà cửa.

– Phần 3 – còn lại: Cái chết của lão Hạc.

Tóm tắt

Lão Hạc là một người nông nghèo. Con trai vì không có đủ tiền cưới vợ nên phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Lão ở nhà một mình với con chó Vàng. Lão chi tiêu dè sẻn, tiết kiệm để dành tiền bòn vườn cho con trai lão. Nhưng không may, lão trải qua một trận ốm nặng và cuộc sống trở nên nghèo khó hơn đã vét cạn tiền của của lão. Lão đành phải bán đi con Vàng, người bạn lão rất yêu quý để dành dụm tiền cho con, để làm ma cho lão mà không phải phiền hà đến xóm giềng. Lão đem mảnh vườn và số tiền dành dụm được sang gửi ông giáo. Lão ăn khoai, chịu đói, ăn thứ gì chế được và từ chối nhận sự giúp đỡ từ ông giáo. Binh Tư nói chuyện với ông giáo rằng lão Hạc đã mua bả chó của hắn. Ông giáo cảm thấy bất ngờ và cảm thấy cuộc đời thật là đáng buồn. Nhưng rồi lão Hạc bỗng nhiên chết – một cái chết thật đau đớn và dữ dội. Ông giáo hiểu ra sự việc, cảm thấy vô cùng đau đớn nghĩ về cái chết của lão Hạc và chiêm nghiệm về cuộc đời.

Câu 1:

Phân tích tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán con Vàng:

– Vui vẻ và hạnh phúc khi có cậu Vàng làm bạn

+ Trân trọng gọi con chó là cậu Vàng

+ Đối xử với con Vàng như đối xử với con cháu: cho ăn trong bát, chửi yêu, gắp thức ăn cho, cưng nựng…

– Diễn biến tâm lý của lão Hạc sau khi bán cậu Vàng

+ Cố tỏ ra vui vẻ, nhưng “hai mắt ầng ậng nước”, “mếu máo như trẻ con”

+ Đau đớn, dằn vặt khi trót lừa dối một con chó “đầu lão ngoẹo về một bên”, “mặt lão đột nhiên co rúm lại”,… khi ông giáo hỏi “thế nó cho bắt à? ”

+ Lão chua xót khi kể về quá trình con chó bị bắt, tưởng tượng ra vẻ mặt và lời oán trách của con Vàng với lão.

→ Lão Hạc là người lương thiện, hiền lành, sống tình nghĩa nên lão cảm thấy vô cùng đau xót, dằn vặt lương tâm khi bán đi cậu Vàng.

Câu 2:

Nguyên nhân dẫn đến cái chết của lão Hạc:

– Do tình cảnh cùng quẫn, đói nghèo

– Lão không muốn ăn phạm vào số tiền mình đã để dành cho con trai

– Lão đau đớn vì phải bán đi cậu Vàng, vì bản thân đã trót lừa một con chó – người mà xem là tri kỉ

Tình cảnh và tính cách của lão Hạc thông qua việc thu xếp, nhờ cậy ông giáo trông mảnh vườn rồi tìm đến cái chết:

– Tình cảnh: nghèo đói, nếu sống sẽ ăn phạm vào tiền của con → khốn cùng, không còn đường để lui.

– Tính cách:

+ Lão là người chu đáo và rất biết lo xa

+ Lão có lòng tự trọng cao, không muốn làm phiền đến hàng xóm láng giềng cả khi sống và khi đã chết

+ Lão xem trọng danh dự, nhân phẩm va đứa con hơn chính cả mạng sống của mình.

Câu 3:

Tình cảm và thái độ của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc:

– Thờ ơ, dửng dưng khi nghe lão Hạc bảo sẽ bán chó, vì lão nói với nhân vật “tôi” rất nhiều lần trước đó.

– Cảm thông, ái ngại, xót xa thay cho lão Hạc khi thấy lão khóc vì bán cậu Vàng

– Quan tâm, muốn sẻ chia cùng với lão Hạc khi dấu vợ ngấm ngầm giúp lão.

– Hoài nghi, thất vọng khi nghe thấy Binh Tư kể về chuyện lão xin bả chó…

– Kính trọng nhân cách cao đẹp của lão khi biết nguyên nhân cái chết của lão Hạc.

Câu 4:

– Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc đến xin hắn bả chó để bắt một con chó nhà hàng xóm hay đến thì nhún vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật… đáng buồn”: “Tôi” không ngờ rằng một con người đã khóc vì phải bán một con chó lại xin bả chó để kiếm miếng ăn. Ông giáo nghĩ rằng cái khốn cùng, cái đói đã khiến nhân cách của lão Hạc bị tha hóa.

– Nhưng khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ: “Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại càng đáng buồn theo một nghĩa khác”: Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn vì nhân cách của lão Hạc vẫn còn giữ vẹn nguyên như “tôi” đã từng biết. Nhưng đáng buồn vì cái chết thương tâm của một con người tình nghĩa nhưng bị dồn tới đường cùng vì cái đói, cái nghèo.

Câu 5:

– Cái hay của truyện bộc lộ rõ nhất ở những điểm:

+ Tình huống truyện bất ngờ: Khiến cho người đọc cũng đã từng có lúc hoài nghi lão Hạc như ông giáo, để rồi vỡ òa trong sự kính trọng và thương xót.

+ Diễn biến tâm lí của nhân vật lão Hạc và ông giáo được miêu tả một cách chi tiết, bất ngờ và có chiều sâu.

+ Ngôn ngữ của truyện: ngôn ngữ cô đọng, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy suy nghĩ, đậm chất trữ tình mang cả tình cảm và tâm trạng của nhân vật.

+ Nghệ thuật kể chuyện: Câu chuyện được kể dựa trên lời dẫn của nhân vật “tôi” người đã tham gia trong câu chuyện và chứng kiến tất cả các sự việc diễn ra. Điều này khiến cho câu chuyên thêm gần gũi, chân thật với người đọc, khiến cho câu chuyện không còn đơn điệu mà đa giọng điệu.

Câu 6:

– Đừng nhìn người khác một cách phiến diện mà hãy cố gắng tìm hiểu thế giới nội tâm, tâm hồn và bản tính của họ.

– Hãy đặt bản thân vào vị trí của họ để tìm hiểu chứ không nên nhìn bên ngoài rồi phán xét.

– Cần trân trọng, khám phá vẻ đẹp bên trong của con người và cảm thông với họ.

Câu 7:

Cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ thông truyện ngắn “Lão Hạc” và đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”.

– Cuộc sống đói kém, nghèo khổ, lạc hậu.

– Họ bị chèn ép, bị bóc lột và sống trong bất công.

– Họ luôn giữ được nhân cách cao đẹp, phẩm chất trong sạch, giàu tình yêu thương, giàu sức mạnh và sức phản kháng tiềm tàng.

Bài trước: Soạn bài: Viết bài tập làm văn số 1 (trang 40 sgk Ngữ văn 8 tập 1) Bài tiếp: Soạn bài: Từ tượng hình, từ tượng thanh (trang 49 ngữ văn 8 tập 1)

Bài Soạn Lớp 8: Lão Hạc

Tên thật: Trần Hữu Tri (1915 – 1951)

Quê: Hòa Hậu – Lí Nhân – Hà Nam

Là nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực thời kì (1940 – 1945)

2. Tác phẩm:

Truyện ngắn “Lão Hạc” là truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân, đăng lên báo lần đầu năm 1943.

Phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm.

Ngôi kể thứ nhất (nhân vật ông giáo)

Bố cục: 3 đoạn

Lão Hạc nhà nghèo, vợ đã mất. Lão sống cảnh gà trống nuôi con. Lão Hạc rất khổ tâm vì không đủ tiền cưới vợ cho con. Người con trai phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su biền biệt hơn một năm chẳng có tin tức gì. Lão sống lủi thủi một mình với “cậu vàng”. Lão cố làm thuê làm mướn kiếm ăn, còn tiền thu được từ hoa lợi của mảnh vườn lão dành dụm chờ con về để cưới vợ cho con. Sau trận ốm dài hai tháng, tiền dành dụm cạn kiệt. Rồi bão lại phá sạch hoa màu, lão Hạc lâm vào tình cảnh đói deo đói dắt. Lão Hạc đau lòng quyết định bán “cậu vàng” đi. Sau đó lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn khi nào con trai lão về trao lại cho nó. Lão Hạc lại gửi ông giáo 30 đồng bạc để khi chết có tiền ma chay. Từ đó lão từ chối tất cả mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Khi không còn kiếm được gì để ăn lão đã xin bả chó tự tử, lão chết thật đau đớn vật vã thê thảm. Lão ra đi để lại trong lòng ông giáo một nỗi ngậm ngùi xót xa.

Phân tích diễn biến tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó. Qua đó, em thấy lão Hạc là người như thế nào?

Trả lời:

Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó:

Thứ nhất là tình cảm đối với “Cậu vàng”:

Gọi con chó là “Cậu vàng”

Bắt rận, đem ra ao tắm

Cho ăn cơm…cái bát như một nhà giàu.

Nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng

Chửi yêu nó, nói với nó…cháu bé về bố mó

To tiếng dọa, nắm lấy nó, ôm đầu nó….

Sau khi bán “cậu vàng”:

Lão cố làm ra vui vẻ, cười như mếu

Đôi mắt lão ầng ậc nước

Mặt co rúm, vết nhăn xô lại, ép nước mắt…

Cái đầu ngoẹo miệng móm mém…mếu…

Lão hu hu khóc…

“Thì ra tôi già …lừa một con chó”.

Em hiểu như thế nào về nguyên nhân cái chết của lão Hạc? Qua những điều lão Hạc thu xếp nhờ cậy ông giáo rồi sau đó tìm đến cái chết, em suy nghĩ gì về tình cảnh và tính cách của lão Hạc?

Trả lời:

Nguyên nhân cái chết của Lão Hạc:

Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đẩy lão đến cái chết như một hành động tự giải thoát.(đó cũng là số phận cơ cực đáng thương của những người dân nghèo trước CMT8).

Muốn bảo toàn căn nhà, mảnh vườn cho con, không muốn gây phiền hà cho hàng xóm láng giềng.

Trả lời:

Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông (nghe lão Hạc nói chuyện bán chó, nghe lão kể về đứa con), thoáng buồn và nghi ngờ (khi nghe binh Tư kể), kính trọng (khi chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc).

“Tôi muốn ôm choàng lấy lão mà khóc”

Giữ hộ Lão Hạc mảnh vườn và ba mươi đồng

“Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngầm ngầm lão”.

Khi nghe Binh Tư cho biết lão Hạc xin hắn bả để bắt một con chó hàng xóm, nhân vật “tôi” cảm thấy “cuộc đời quả thật… đáng buồn”, nhưng khi chứng kiến cái chết của lão Hạc, “tôi” lại nghĩ : “Không ! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Ý nghĩa của nhân vật “tôi” như thế nào?

Trả lời:

Ý nghĩa của nhân vật “tôi” là:

Khi nói chuyện với Binh Tư:

“Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”

Buồn vì: đói nghèo có thể đổi trắng thay đen, biến người lương thiện như Lão Hạc trở thành kẻ trộm cắp như Binh Tư.Buồn vì: một con người như Lão Hạc đành phải biến chất vì không còn tìm đâu ra miếng ăn tối thiểu hàng ngày.

Khi chứng kiến lão Hạc chết:

“Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn”

Vì không có gì hủy hoại được nhân phẩm của người lương thiện như Lão Hạc để ta có quyền hy vọng và tin tưởng ở con người.

“Hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”

Vì người tốt như Lão Hạc mà hoàn toàn vô vọng, phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ

Theo em, cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm nào ? Việc tạo dựng tình huống truyện bất ngờ có tác dụng như thế nào? Cách xây dựng nhân vật có gì đặc sắc ? Việc truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” có hiệu quả nghệ thuật?

Trả lời:

Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở những điểm:

Rất mực chân thực.

Thấm đượm cảm xúc trữ tình.

Cách dựng truyện: Nhà văn dựng truyện chân thực và sinh động. Ông dẫn người đọc vào mạch truyện đầy khéo léo, bất ngờ. Càng lúc truyện càng căng thẳng qua đó, bộc lộ tính cách và tâm lí nhân vật qua từng sự kiện trong truyện.

Cách xây dựng nhân vật có đặc săc: Xây dựng cả hai nhân vật có nhân cách, phẩm giá dù cho họ có nỗi khổ riêng:

Lão Hạc giàu tình thương, lòng tự trọng, trung thực

Ông giáo tử tế, biết chia sẻ, đồng cảm.

Truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” có hiệu quả nghệ thuật: Câu chuyện được kể theo lời dẫn của nhân vật “tôi” (ông giáo) – người tham gia trong câu chuyện và chứng kiến sự việc diễn ra. Điều này làm cho câu chuyên thêm chân thật, gần gũi với người đọc. Đồng thời chọn vai kể này, việc dẫn dắt câu chuyên sẽ tự nhiên, linh hoạt hơn. Cũng vì thế, câu chuyên được kể với nhiểu giọng điệu hơn. Ngưòi kể có thể vừa kể, vừa bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình. Việc miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật cũng rất tự nhiên, hợp lí. Việc tạo tình huống truyện bất ngờ nhằm lôi cuốn người đọc và dễ dàng trình bày triết lí sâu sắc về cuộc sống của tác giả.

Em hiểu thế nào về nhân vật “tôi” qua đoạn trích: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố gắng mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bí Ổi… toàn những cái cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ ta thương…”.

Trả lời:

Suy nghĩ cúa ông giáo thế hiện cách nhìn nhận người nông dân của nhà văn Nam Cao. Theo nhà văn, chúng ta phải nhìn nhận và đánh giá bằng đôi mắt của tình thương và lòng tin mới thấy hết được bản chất tôt đẹp cùa họ. Tác giả đã đặt mình vào hoàn cảnh của nhân vật để cảm thông và thấu hiểu những tâm trạng họ phải trải qua. Đây đúng là một quan điểm tiến bộ, đúng đắn và sâu sắc, đầy tính nhân văn của nhà vàn Nam Cao. Những câu văn triết lí đó là những suy nghĩ gan ruột nên có sức thuyết phục đặc biệt.

Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ và truyện ngắn Lão Hạc, em hiểu thế nào về cuộc đời và tính cách của người nông dân trong xã hội cũ?

Trả lời:

Đây là những số phận thật nghiệt ngã, thương tâm, nghèo khổ, bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến cái nghèo khổ cùng cực trước cảnh sưu thuế tàn nhẫn, như gia đình chị Dậu phải bán chó, bán con và đẩy người ta vào cảnh khốn quẩn như lão Hạc.

Nói về tính cách: Cũng từ các tác phẩm này ta thấy được những phẩm chất đáng quý của con người nông dân thời bấy giờ. Đó là những con người:

Trong sạch, lương thiện , giàu tình yêu thương

Họ sẵn sàng chết, phản kháng lại để giữ phẩm giá cao quý của mình

Trong người nông dân luôn tiềm tàng sức mạnh của tình cảm, có thể phản kháng lại những bất công.