Top 3 # Soạn Bài Lão Hạc Hay Nhất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lão Hạc Lớp 8 Đầy Đủ Hay Nhất

Hướng dẫn soạn bài Lão Hạc lớp 8 đầy đủ hay nhất để các bạn tham khảo cho việc soạn bài của mình ở nhà

Các bài soạn trước đó:

SOẠN BÀI LÃO HẠC LỚP 8

I- Tìm hiểu chung

1. Tác giả

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu cho dòng văn hiện thực phê phán đầu thế kỉ 20

Sáng tác của ông thường tập trung vào hai đề tài: người nông dân nghèo và người trí thức nghèo trước cách mạng

Ngòi bút của ông mang giá trị hiện thực sâu sắc và thấm đẫm tinh thần nhân đạo

Giọng văn lạnh lùng, khách quan nhưng đằng sau đó là tấm lòng cảm thương sâu sắc

2. Tác phẩm

“Lão Hạc” sáng tác năm 1943, là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao

II- Soạn bài Lão Hạc

Câu 1 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Lão Hạc và cậu Vàng có một tình cảm vô cùng sâu sắc:

Lão gọi nó là cậu Vàng, xưng ông

Ông bắt rận, tắm, gắp thức ăn vào bát cho nó

Trò chuyện, cưng nựng, thương yêu nó như đứa cháu

Trước khi bán cậu Vàng, lão Hạc đã vô cùng băn khoăn, day dứt:

Ông đắn đo, suy tính, bàn bạc với ông giáo

Cậu Vàng vừa là con cháu, vừa là kỉ vật đứa con để lại

Sau khi bán cậu Vàng:

Cố làm ra vui vẻ, nhưng “đôi mắt ầng ậng nước”, “mếu máo như con nít”

Câu 2 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Nguyên nhân cái chết của lão Hạc:

Tình cảnh khốn khổ, túng quẫn

Lão muốn bảo toàn số tiền để dành cho con

Lão chọn cái chết như một hành động tự giải thoát

Tình cảnh và tính cách của lão Hạc:

Lão là người hết mực yêu thương con

Lão có lòng tự trọng đáng kính

Là người lo xa, coi trọng danh dự, nhân phẩm hơn cả mạng sống

Câu 3 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Thái độ của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc:

Trước: rất dửng dưng, hiểu sai về lão Hạc

Sau:

Thấy xót xa, ái ngại cho tình cảnh của lão

An ủi, cảm thông với lão Hạc khi bán con chó thân yêu

Hiểu, trân trọng và nể phục nhân cách cao đẹp của một con người bình dị

Câu 4 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Khi nghe Binh Tư nói, ông giáo cảm thấy buồn, thất vọng vì:

Lão Hạc vì miếng ăn, cái đói mà bị tha hóa, nối gót Binh Tư

Sau đó chứng kiến cái chết dữ dội của lão Hạc: Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn, nhưng lại buồn theo một nghĩa khác:

“Không! Cuộc đời chưa hẳn là đáng buồn” vì vẫn có những con người lương thiện, giàu lòng tự trọng như lão Hạc

Nhưng lại buồn theo một nghĩa khác: Một người có nhân cách trong sạch, cao quý như lão Hạc mà lại phải chọn cái chết dữ dội, đau đớn

Câu 5 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Cái hay của truyện thể hiện rõ nhất ở việc khắc họa tâm lí nhân vật- nét nổi bật trong phong cách Nam Cao:

Sự dằn vặt, đau đớn của lão Hạc khi bán con chó

Sự thay đổi trong thái độ của ông giáo với lão Hạc

Việc tạo dựng tình huống truyện bất ngờ có tác dụng giúp bộc lộ tính cách nhân vật, đẩy mạch truyện lên cao trào

Việc truyện được kể bằng lời của nhân vật “tôi” giúp nhà văn dễ dàng bày tỏ quan điểm, thái độ, tư tưởng của mình

Câu 6 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Ý nghĩ của nhân vật “tôi” thể hiện một quan điểm hết sức tiến bộ của Nam Cao: Chúng ta không nên đánh giá người khác một cách phiến diện, đơn giản, xuôi chiều

Con người đôi khi có thể bị những cái xấu xí che lấp mất phần tốt đẹp bên trong

Cần phải xem xét, đánh giá con người một cách toàn diện, đặt mình vào hoàn cảnh của họ, “cố tìm mà hiểu” để phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bị khuất lấp

Câu 7 trang 48 SGK văn 8 tập 1:

Cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng tám:

Họ bị áp bức, bóc lột đến kiệt quệ, rơi vào con đường bần cùng hóa

Bị hoàn cảnh xô đẩy, không còn lối thoát

Những phẩm chất đáng quý của người nông dân:

Giàu tình yêu thương, tinh thần phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ

Nhân cách cao đẹp, lương thiện, trung thực, giàu lòng tự trọng

Các bài soạn tiếp theo:

Soạn Bài Lão Hạc Ngắn Gọn Hay Nhất Và Tóm Tắt Tác Phẩm Lão Hạc Lớp 8

Trước tiên để hiểu rõ nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học bất kỳ, người đọc cũng cần nắm được những thông tin cơ bản về nhà văn cũng như tác phẩm đó. Soạn bài Lão Hạc hay phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của lão Hạc chúng ta cần hiểu được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và đôi nét về nhà văn.

Nam Cao là một trong số cây bút tài hoa xuất sắc của phong trào văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -1945. Đặc biệt, ông được mệnh danh là “nhà văn của người nông dân”, bởi những tác phẩm của ông chủ yếu hướng về cuộc sống của những người dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Khi soạn bài Lão Hạc, chúng ta cần tìm hiểu sâu về nhà văn với nhưng thông tin như sau:

Nam Cao sinh năm 1915 và mất năm 1951, quê ông ở làng Đại Hoàng, thuộc phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Đại đa số các tác phẩm của Nam Cao đều xoay quanh hai đề tài chính, đó là người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo thời xưa. Suốt cuộc đời lao động hết mình cho nghệ thuật, cho thơ ca văn học, Nam Cao luôn ý thức trách nhiệm trong ngòi bút của việc để tạo ra những tác phẩm có giá trị với sức cống hiến lớn lao nhất.

Là nhà văn có năng khiếu xuất sắc cùng với một phong cách nghệ thuật độc đáo, Nam Cao luôn dành tình cảm chân thành của mình vào đời sống của những con người nghèo khổ trong xã hội. Ngòi bút của ông vừa tỉnh táo sắc lạnh, lại vô cùng nặng trĩu suy tư với da diết yêu thương cho những con người cùng khổ. Chất văn của tác giả Nam Cao vô cùng chân thực, dung dị và đời thường. Bởi với ông, hiện thực là trên hết. Hiện thực đầy sinh động, cụ thể và rõ nét để phục vụ cho hành trình “nghệ thuật vị nhân sinh”.

Với phong cách nghệ thuật thấm đượm ý vị triết lý mà vô cùng trữ tình, Nam Cao vốn có sở trường phân tích và diễn tả tâm lý con người. Ngôn ngữ trong các tác phẩm ông để lại nhìn chung vô cùng mộc mạc, chân chất như chính con người của ông vậy. Không chỉ thế, lối văn của Nam Cao cũng dạt dạo ý vị tinh tế, uyển chuyển và đầy sống động.

Lão Hạc đã thể hiện một cách chân thực và đầy cảm động về số phận một lão nông nghèo trong hoàn cảnh éo le. Nhà văn đã đi vào tận cùng ngõ ngách tâm lý nhân vật, đã thâm nhập vào những thân phận cùng khổ nhất để mà từ đó cất lên tiếng nói trân trọng, yêu thương và tấm lòng cảm thông vô hạn.

Tóm tắt tác phẩm Lão Hạc khi soạn bài Lão Hạc

Tác phẩm kể về một lão nông nghèo – lão Hạc – một người mang phẩm chất trong sạch. Vợ lão mất sớm, để lão Hạc một mình còm cõi cùng một đứa con trai. Lão nghèo đến nỗi mà tài sản duy nhất chính là mảnh vườn và “cậu vàng”- chú chó mà lão hết mực yêu thương.

Do không đủ tiền để mà cưới vợ, con trai lão Hạc chán nản làm đơn xin đi mộ phu đồn điền cao su, để lão lại cùng con chó vàng. Lão Hạc vô cùng thương con, thương con bao nhiêu nhớ con bấy nhiêu thì lão cố gắng chăm chỉ làm vườn để mà giành dụm để khi con trai lão về thì có tiền mà cưới vợ cho con.

Ấy vậy mà, đột nhiên lão ốm nặng, bao nhiêu tiền dành dụm cũng đội nón đi hết. Khi sức khỏe lão Hạc ngày một yếu đi, vườn cũng không có gì để bán, sự đói kém nghèo khổ khiến lão kiệt quệ, phải lo từng ngày, từng bữa ăn. Tài sản còn lại chỉ có cậu vàng, lão ăn năn day dứt khi quyết định bán đi chú chó mà đối với lão nó quan trọng bao nhiêu.

Nghĩ lại thân phận mình, nghĩ đến sự khổ cực đành rứt ruột bán đi cậu vàng, nghĩ đến cái sự già yêu ngày một gần, lão Hạc quyết định gửi lại mảnh vườn và số tiền còm cõi của mình cho ông giáo, và xin ít bả chó của Binh Tư để mà kết thúc cuộc sống túng quẫn. Lão Hạc chết một cách đau đớn, nhưng cái chết làm sáng người nhân phẩm cao đẹp của lão.

Cuộc sống khốn cùng nghèo đói vất vả của lão Hạc cũng chính là số phận và cuộc đời của những người nông dân trong xã hội cũ trước Cách mạng tháng Tám. Thông qua cuộc đời, số phận và cái chết đau đớn của lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực đời sống của những con người khốn khổ, qua đó gián tiếp bày tỏ thái độ trân trọng và tấm lòng nhân đạo của mình.

Không dừng lại ở đó, nhà văn hiện thực của chúng ta còn nêu lên một triết lý nhân sinh: con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa khi biết chia sẻ, nâng niu và trân trọng những điều đáng quý, bởi “chết trong còn hơn sống đục”. Đồng cảm với những số phận đáng thương bao nhiêu, Nam Cao lại tố cáo vạch trần bản chất thối nát của xã hội đương thời bấy nhiêu.

Để phân tích diễn biến tâm lý và tính cách nhân vật một cách tốt nhất, chúng ta cùng soạn bài Lão Hạc qua việc tìm ra sơ đồ tư duy phân tích nhân vật lão Hạc, cuộc đời và tính cách nhân vật lão Hạc thể hiện trong tác phẩm. Từ đó, có những cảm nhận về nhân vật lão Hạc qua việc trả lời những câu hỏi trong chương trình sách giáo khoa

Truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao có thể được chia ra làm ba phần chính như sau:

Phần 1 – Từ đầu đến “nó thế này ông giáo ạ”: Miêu tả sự ăn năn, day dứt và dằn vặt của lão Hạc khi bán cậu Vàng.

Phần 2 – Tiếp đến “một thêm đáng buồn…: Lão Hạc gửi ông giáo tiền bạc và mảnh vườn cho cậu con trai

Phần 3 – Đoạn còn lại: Cái chết đau đớn đầy đau khổ của lão Hạc

Chú chó Vàng được lão âu yếm yêu thương gọi là cậu Vàng là người bạn tri kỉ như hình với bóng với lão. Tình cảm của lão dành cho cậu Vàng được nhà văn miêu tả cụ thể và chân thực cũng như tâm trạng buồn đau khi quyết định bán đi cậu Vàng của lão. Soạn bài Lão Hạc, chúng ta cần phân tích chi tiết này

Tình cảm của lão Hạc dành cho cậu Vàng

Trân trọng, yêu thương gọi chú chó của mình là cậu Vàng

Làm bạn với cậu Vàng để khuây khỏa và giải tỏa những nỗi nhớ con trai

Lão Hạc đối xử với cậu Vàng rất chân thành và giàu tình cảm như với con cháu của mình: cho cậu Vàng ăn trong bát, gắp thức ăn cho, cưng nựng, chửi yeu…

Tình thế khốn cùng buộc lão Hạc phải bán đi cậu Vàng

Sau trận ốm lay lắt cùng với trận bão đi qua khiến lão Hạc ngày một ốm hơn, luôn trong hoàn cảnh tính ăn từng bữa “đói lay lắt”. Khi soạn bài Lão Hạc, đấy là hoàn cảnh khiến người đọc cảm động vô cùng.

Diễn biến tâm lý sau khi lão Hạc bán cậu Vàng

Lão nông ấy cố tỏ ra vui vẻ, bình thản như không có chuyện gì, nhưng lại “đôi mắt ầng ậc nước” “mếu máo như con nít”

Lão Hạc cảm thấy ăn năn hối lỗi và tệ bạc khi lừa một con chó

Lão đau đớn đầy dằn vặt vì quá thương cậu Vàng của mình

Phải nói rằng, khi soạn bài Lão Hạc và phân tích diễn biến tâm lý của lão khi bán cậu Vàng, chúng ta thấy hình ảnh về một lão nông chân chất, đôn hậu, giàu tình cảm, một người hiền lành, và sống tình nghĩa. Bởi thế, nên lão Hạc mới thấy dằn vặt lương tâm khi nỡ lòng lừa một con chó.

Bởi tình cảnh nghèo khổ và quá túng quẫn: bần cùng, đói leo lắt lo ăn từng bữa

Lão không thể ăn vào số tiền đã tích cóp chút ít nhỏ nhoi mà vốn để dành cho cậu con trai

Lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết là cách giải thoát cho số kiếp và bảo toàn số tiền cho con

Chi tiết lão Hạc thu xếp nhờ ông Giáo già, sau đó mới tìm đến cái chết chứng tỏ rằng:

Lão nông này là người giàu lòng tự trọng và biết lo xa, không muốn cái chết của mình ảnh hưởng đến người khác

Lão không nhận sự giúp đỡ, không chấp nhận việc làm bất lương

Lão Hạc là người có phẩm cách cao quý, coi trọng nhân phẩm và danh dự hơn cả mạnh sống.

Bị bần cùng hóa, cùng cực hóa cuộc sống

Họ bị bóc lột, nghèo đói, sống khổ cực

Cuộc sống eo hẹp túng quẫn dẫn tới bế tắc kiệt quệ

Họ là những người nông dân có phẩm chất cao quý, trong sạch, lương thiện và giàu lòng yêu thương

Họ sẵn sàng đối mặt với cái chết để bảo toàn danh dự nhân phẩm

Họ là những người giàu tình cảm, tiềm tàng sức mạnh để phản kháng lại những bất công ngang trái

Phân tích nhân vật khi soạn bài Lão Hạc

Trong khi soạn bài Lão Hạc, chúng ta không thể quên phân tích nhân vật lão Hạc, bày tỏ cảm nhận về nhân vật lão Hạc cũng như những phẩm chất tốt đẹp của lão nông này.

Một lão nông ngoài sáu mươi tuổi, vợ mất sớm, một mình đơn độc với đứa con trai cũng sớm vì nghèo mà bỏ đi phu điền cao su. Chỉ có duy nhất chú chó – cậu Vàng là người bạn tâm giao tri kỉ với lão qua ngày. Cả tài sản của lão quy lại chỉ có mấy sào vườn, một túp lều và chú chó vàng mà thôi. Cái cảnh gà trống nuôi con, lần hồi làm thuê kiếm sống, để rồi nghèo khó không qua nổi mà con trai đành bỏ đi làm công nhân.

Tuổi già sống cô quạnh trong nghèo nàn đói kém, lão Hạc vẫn không để danh dự và nhân phẩm bị ảnh hưởng. Trận ốm dai dẳng kéo dài những hai tháng mười tám ngày, không một người thân đỡ đần, không một ai chăm sóc, không một chén thuốc, ấy vậy mà lão cũng leo lắt qua được. Thế những, vốn liếng dành dụm đi hết, lão lo ăn từng bữa qua ngày… Tình cảnh của lão nông ấy thật đáng thương bao nhiêu “Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một thứ gì đâu?”

Lão nông ấy bế tắc đành tìm đến cái chết để giải phóng cuộc sống túng quần này. Cuộc sống ngày một nặng nề khi miếng cơm đề nặng lên lão mỗi ngày. Lão ăn khoai, ăn củ chuối sống qua ngày. Một lão nông già cô đơn tính ăn từng bữa… Soạn bài Lão Hạc, chúng ta không khỏi cảm động những chi tiết này được Nam Cao miêu tả thật sinh động và chân thực biết bao.

Số phận mỗi một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương bao nhiêu. Họ bế tắc và tìm đến kết cục bi thảm của cái chết. Nếu như Lang Rận thắt cổ chết, Chí Phèo tự sát bằng mũi dao thì lão Hạc lại ra đi bởi bả chó…Đến chết vẫn phải đau đớn giãy giụa ” nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta làm kiếp gì cho thật sướng?” – câu hỏi ấy thể hiện nỗi đau tột cùng cũng là sự bế tắc không lời giải đáp của lão Hạc.

Soạn bài Lão Hạc, người đọc còn nhận ra hình ảnh về một lão nông già đầy tình yêu thương, sự hiền lành và đôn hậu. Lão là một ông bố rất thương con, vì không có tiền mà con bỏ đi làm đồn điền cao su khiến lão canh cánh trăn trở và đau lòng. Lão thương con,lão chỉ biết khóc…. Đói khổ thế nào, lão cũng quyết giữa ba sào vườn cho con, ” lão thà chết chứ nhất định không chịu bán đi một sào”.

Tất cả đều vì đứa con trai đi biền biền năm, sáu năm rồi chưa về. Một sự hi sinh âm thầm to lớn của những người bố “gà trống nuôi con”. Lòng nhân hậu, vị tha của lão nông này còn thể hiện ở tình cảm mà lão dành cho cậu Vàng. Cho nó ăn cơm, bắt rận cho nó, ăn gì cũng chia cho nó, lão tâm sự với nó như một người tri kỉ…

Cậu Vàng dù chỉ là một chú chó, nhưng đã được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng chẳng khác gì người con, người cháu của mình. Nó chính là điểm tựa, là nguồn vui, nơi san sẻ tinh thần tuổi già của lão nông ấy. Cậu Vàng chính là một phần đời sống của lão, là thú vui tuổi già duy nhất mà lão Hạc có. Ấy vậy mà, sự khắc nghiệt của cuộc sống dồn lão phải bán đi cậu Vàng. Để rồi sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quấn, từ ăn năn day dứt đã đẩy lão Hạc xuống xuống đáy bể bi kịch, để mà chọn cái chết thảm thương và đau đớn.

Khi mà cái đói rình rập từng bữa, miếng cơm phải lo từng ngày, khi lão phải ăn củ khoai, củ chuối cho qua bữa… nhưng lão Hạc của chúng ta vẫn giữ lòng tự trọng và danh dự của mình. Soạn bài Lão Hạc, người đọc không khỏi xúc động về nhân phẩm cao quý của lão cố nông này.

Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ lão nhưng đều bị lão thẳng thừng từ chối. Bất đắc dĩ mà phải bán con chó, để rồi cuộc sống của lão sau đó chìm trong ăn nặn và hối hận. Khi phải tìm đến cái chết, lão Hạc cũng phải lo chu toàn, gửi lại mấy sào vườn cho con trai, ba mươi đồng bạc lẻ để mà “nếu có chết…gọi là của lão có tí chút” vì lão không muốn vì mình mà làm phiền đến những người hàng xóm.

Tác giả: Việt Phương

3 Bài Văn Mẫu Phân Tích Nhân Vật Lão Hạc Trong Truyện Ngắn Lão Hạc Hay Nhất

3 bài văn mẫu Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc hay nhất

Đề bài: Phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên

Bài giảng: Lão Hạc – Cô Phạm Lan Anh (Giáo viên VietJack)

Bài văn mẫu 1

Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Lão không chỉ đại diện cho số phận cùng cực, bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ mà lão còn là đại diện cho những phẩn chất cao quý, tiềm tàng trong họ.

Trước hết lão hạc là người có số phận bất hạnh. Lão góa vợ, sống một mình nuôi con, vì gia cảnh nghèo khó, số tiền thách cưới lại quá cao nên lão không thể lấy vợ cho con, bởi vậy trong lòng lão lúc nào cũng mang tâm trạng dằn vặt, đau đớn. Cũng bởi việc này mà con trai lão bỏ đi đồn điền cao su, bặt vô âm tín. Về già những tưởng có người chăm sóc thì lão lại phải sống trong cảnh cô đơn. Lão không được sống cuộc đời an nhàn, thảnh thơi, dù già nhưng lão vẫn đi làm thuê, để tích cóp cho con. Nhưng số phận trêu đùa, một trận ốm nặng lấy hết tiền lão đã dành dụm, trận bão cướp hết hoa màu. Càng trớ trêu hơn khi cậu Vàng – kỉ vật con trai lão để lại, lão yêu nó hơn cả bản thân nhưng nay lão lại phải bán nó đi. Lão rơi vào bi kịch: bán hay không bán cậu Vàng. Nhưng thực tế khốn khó, dù vô cùng đau đớn lão cũng đành phải bán cậu Vàng. Sau khi bán cậu Vàng, lão rơi vào khủng hoảng tâm lí trầm trọng: “Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”, “mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão ân hận, day dứt khi đã bán cậu Vàng. Lão tự kết tội mình là đã đánh lừa một con chó. Trong cuộc đời đầy những vất vả, đổi trắng thay đen, người ta lừa lọc nhau để sống nhưng lão Hạc lại ăn năn vì đã bán một con chó. Điều này cho thấy sự ngay thẳng và nhân cách cao đẹp trong con người lão Hạc. Dù đã bán cậu Vàng những cuộc sống vẫn lão ngày một nghèo khó, lão vớ được thứ gì ăn thứ đó và cuối cùng lão đã tìm đến cái chết như một cách tạ tội với cậu Vàng và giải thoát chính mình. Tuy nhiên, cách giải thoát của lão hết sức bi thảm: tự tử bằng việc ăn bả chó. Việc một con người giàu lòng yêu thương, trung thực phải tìm đến cái chết đau đớn vật vã như vậy tự bản thân nó đã bao hàm ý nghĩa lên án, tố cáo xã hội phi nhân tính.

Không chỉ vậy, lão còn là một người cha hết mực thương con và có trách nhiệm. Khi con bỏ đi đồn điền cao su, lão luôn cảm thấy đau đớn, xót xa vì đã không làm tròn vai trò của một người cha. Bao nhiêu tình yêu thương con lão dồn hết vào việc chăm sóc cậu vàng: lão âu yếm trò chuyện với nó, cho nó ăn cơm trong bát như nhà giàu,… Lão không ngừng lao động, chắt chiu, tằn tiện để dành dụm cho con. Lão quyết tâm tìm mọi cách để giữ lại mảnh vườn cho con. Những ngày đau ốm, cùng trận bão đã cướp sạch đi tiền của và hoa màu của lão, những ngày sau đó lão sống lay lắt, tằn tiện cuối cùng lão quyết định tìm đến cái chết. Trước khi chết lão sang nhà ông giáo gửi gắm lại mảnh vườn, để sau này đứa con trở về vẫn có nơi làm ăn sinh sống. Lão chu toàn trong tất cả mọi việc, không chỉ suy nghĩ trong hiện tại, mà còn bảo vệ tài sản cho con cả ở tương lai. Ông quả là có tình yêu thương con sâu sắc, tha thiết.

Lão Hạc còn là người có lòng tự trọng sâu sắc. Lão luôn sống bằng sức lao động của mình. Dù ông giáo có thiện ý giúp đỡ nhưng lão vẫn từ chối: “Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng ăn một vài củ ráy hay bữa ốc”. Nhân cách trong sáng của lão còn thể hiện trong dòng nước mắt, trong lời nói đầy ân hận khi lão đã chót lừa cậu vàng, và lão đã lấy cái chết đau đớn, vật vã như một con chó để tạ lỗi với cậu Vàng. Trước khi chết lão chuẩn bị hết sức chu đáo, lão gửi lại tiền ma chay cho ông giáo để sau này khi chết đi không làm phiền đến hàng xóm. Lão quả thật là một con người có nhân cách cao đẹp đáng trân trọng.

Nhân vật lão Hạc đại diện cho người nông dân Việt Nam mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp: tình yêu thương và lòng tự trọng, nhân cách cao đẹp. Qua nhân vật này tác giả vừa bộc lộ thái độ yêu thương, trân trọng đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc cho số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng.

Bài văn mẫu 2

Viết về đề tài nông dân trước cách mạng, “Lão Hạc” là một truyện ngắn độc đáo, đặc sắc của nhà văn Nam Cao. Một truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương khi tác giả kể về cuộc đời cô đơn bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông nghèo khổ. Nhân vật lão Hạc đã để lại trong lòng ta bao ám ảnh khi nghĩ về số phận con người, số phận người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ.

Lão Hạc, một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều, một con chó vàng… đó là tài sản, vốn liếng của lão. Vợ chết đã lâu, cảnh gà trống nuôi con, lão lần hồi làm thuê kiếm sống. Đứa con trai độc nhất không có trăm bạc để cưới vợ, cảm thấy “nhục lắm” đã “phẫn chí” đi phu đồn điền cao su Nam Kỳ, biền biệt năm, sáu năm chưa về. Tuổi già, sống cô quạnh, nỗi bất hạnh ngày thêm chồng chất. Lão Hạc chỉ còn biết làm bạn với con chó vàng. Lão bị ốm một trận kéo dài 2 tháng 18 ngày. Không một người thân bên cạnh đỡ đần, săn sóc cho một bát cháo, một chén thuốc! Tinh cảnh ấy thật đáng thương! Tiếp theo một trận bão to, cây trái hoa màu trong vườn bị phá sạch sành sanh. Làng mất nghề sợi. Đàn bà con gái trong làng đi làm thuê rất nhiều, giành hết mọi việc. Sau trận ốm, lão Hạc yếu hẳn đi, chẳng ai thuê lão đi làm nữa. Thất nghiệp! Giá gạo mỗi ngày một cao. Lão và cậu Vàng, mỗi ngày ăn hết ba hào gạo mà vẫn “đói deo đói dắt”. Bao nhiêu tiền bán hoa lợi trong vườn dành dụm được bấy lâu nay, lão đã chi tiêu gần hết trong trận ốm!

“Nhưng đời người ta không chỉ khổ một lần (…). Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu?”. Nhân vật ông giáo đã nghĩ như thế khi nghe lão Hạc nói về ý định phải bán con chó. Cậu Vàng “ăn khỏe”, mỗi ngày cậu ấy ăn “bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào”. Lão Hạc rất yêu cậu Vàng, nhưng “lấy tiền đâu mà nuôi được?” Lão Hạc phải bán cậu Vàng cho thằng Xiên, thằng Mục… Bán cậu Vàng xong, lão Hạc bị đẩy sâu xuống đáy vực bi thảm. Lão cảm thấy mình là một kẻ “tệ lắm”, đã già mà còn “đánh lừa một con chó”. Đói khổ, túng bấn, cô đơn… ngày một thêm nặng nề… lão Hạc chỉ ăn khoai, ăn củ chuối, ăn sung luộc, ăn rau má, thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai bữa ốc. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo một cách “gần như là hách dịch”. Lão xa ông giáo dần, chỗ dựa tinh thần của lão bấy lâu nay. Lão Hạc đã ăn bả chó để tự tử. Lão chết đau đớn thê thảm: đầu tóc rũ rượi, mắt long sòng sọc, tru tréo, bọt mép sùi ra… vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết! Cái chết thật là dữ dội!

Số phận một con người, một kiếp người như lão Hạc thật đáng thương. Với chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, Nam Cao đã nói lên bao tình thương xót đối với những con người đau khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết thê thám. Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ chết… Và lão Hạc đã quyên sinh bằng cái bả chó! Lão Hạc đã từng hỏi ông giáo: “… nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?”. Câu hỏi ấy đã thể hiện nỗi đau khố tột cùng của một kiếp người.

Lão Hạc, một con người chất phác, hiền lành, nhân hậu. Lão rất yêu con. Biết con buồn vì không có tiền đé cưới vợ “lão thương con lắm…”. Lão đau đớn khi con sắp đi làm phu đồn điền cao su. Lão chỉ biết khóc: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta dã chụp rồi (…). Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi ?”. “Cao su đi dễ khó về” (Ca dao). Con trai lão Hạc đã đi “bằn bặt” năm, sáu năm chưa về. Hoa lợi trong vườn, bán được bao nhiêu lão dành dụm cho con, hi vọng khi con trở về “có chút vốn mà làm ăn”. Lão tự bảo: “Mảnh vườn là của con ta… Của mẹ nó tậu thì nó hưởng…”. Đói khổ quá, nhưng lão Hạc đã giữ trọn vẹn ba sào vườn cho con. Lão đã tìm đến cái chết, “thà chết chứ không chịu bán đi một sào”. Tất cả vì con, một sự hi sinh thầm lặng cực kì to lớn!

Lòng nhân hậu của lão Hạc được thể hiện sâu sắc đối với con chó vàng, mà người con trai để lại. Lão quý nó, đặt tên nó là “cận Vàng”. Cho nó ăn cơm trong bát sứ như nhà giàu. Bắt rận hoặc đem nó ra cầu ao tắm. Lão ăn gì cũng chia cho cậu Vàng cùng ăn. Lão ngồi uống rượu, cậu Vàng ngồi dưới chân, lão nhắm một miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Lão tâm sự với cậu Vàng như tâm sự với một người thân yêu ruột rà: “Cậu Vàng của ỏng ngoan lắm! Ông không cho giết… Ông để cậu Vàng ông nuôi…”. Có thể nói, cậu Vàng được lão Hạc chăm sóc, nuôi nấng như con, như cháu; nó là nguồn vui, chỗ dựa tinh thần, nơi san sẻ tình thương, giúp lão Hạc vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn, cay đắng. Cậu Vàng là một phần cuộc đời lão Hạc. Nó đã tỏa sáng tâm hồn và làm ánh lên bản tính tốt đẹp của ông lão nông đau khổ, bất hạnh này. Vì thế, sau khi bán cậu Vàng đi, từ túng quẫn, lão Hạc chìm xuống đáy bể bi kịch, dẫn đến cái chết vô cùng thảm thương.

Lão Hạc là một nông dân nghèo khổ mà trong sạch, giàu lòng tự trọng. Trong đói khổ cùng cực phải ăn củ chuối, củ ráy… ông giáo mời lão ăn khoai, uống nước chè, lão cười hồn hậu và khất “ông giáo cho để khi khác”. Ông giáo ngấm ngầm giúp đỡ, lão từ chối “một cách gần như hách dịch”. Bất đắc đĩ phải bán con chó; bán xong rồi, lão đau đớn, lương tâm dằn vặt: “thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Ba sào vườn gửi lại nguyên vẹn cho con trai, như một lời nguyền đinh ninh: “Cái vườn là của con ta (…). của mẹ nó tậu thì nó hưởng”. Tnrớc khi chết, lão gửi lại ông giáo mảnh vườn cho con, và gửi lại 30 dồng bạc đê “lỡ có chết… gọi là của lão có tí chút…”, vì lão không muốn làm phiền đến hàng xóm. Nam Cao đã tinh tế dưa nhân vật Binh Tư, một kẻ “làm nghề ăn trộm” ở phần cuối truyện, tạo nên một sự đối sánh đặc sắc, làm nổi bật tấm lòng trong sạch, tự trọng của lão Hạc, một lão nông chân quê đáng trọng.

Tóm lại, cuộc đời của lão Hạc đầy nước mắt, nhiều đau khổ và bất hạnh. Sống thì âm thầm, nghèo đói, cô đơn; chết thì quằn quại, đau đớn. Tuy thế, lão Hạc lại có bao phẩm chất tốt đẹp như hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, trong sạch và tự trọng… Lão Hạc là một điển hình về người nông dân Việt Nam trong xã hội cũ được Nam Cao miêu tả chân thực, với bao trân trọng xót thương, thấm đượm một tinh thần nhân đạo thống thiết.

Bài văn mẫu 3

Nam Cao là một nhà văn lớn của người nông dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông vẫn cảm nhận được những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của họ trước bờ vực của cái đói, cái nghèo. Truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn là một tác phẩm như thế. Nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật lão Hạc – dù có một hoàn cảnh bất hạnh, đau đớn nhưng lão vẫn giữ được tình yêu thương đối với những người thân yêu và đặc biệt là một lòng tự trọng cao cả. Qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện tư tưởng nhân đạo tiến bộ và sâu sắc.

Lão Hạc cũng như bao người nông dân Việt Nam khác phải đối mặt với cái nghèo, cái đói của cuộc sống cơ cực, tăm tối trước Cách mạng. Nhưng lão còn có những hoàn cảnh riêng vô cùng bất hạnh. Vợ lão chết sớm. Con trai lão phẫn chí vì nghèo không lấy được người mình yêu nên bỏ đi đồn điền cao su. Lão chỉ có con Vàng là kỷ vật của con để làm bạn. Vậy là cùng một lúc lão phải đối mặt với bao đau khổ: cái đói, sự cô đơn và tuổi già với ôm đau, bệnh tật. Rồi cuộc đời cực khổ, dồn lão đến mức hết đường sinh sống. Lão phải dứt ruột bán đi con chó Vàng mà lão yêu thương nhất. Lão bán con chó trong niềm khổ đau tột cùng: “Mặt co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít”, “lão hu hu khóc”,…

Ban đầu là “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”, “khoai cũng hết, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc”. Rồi đến mức chẳng còn gì để ăn, để sống. Rồi điều gì đến sẽ phải đến. Không còn đường sinh sống, lão Hạc chỉ còn đường chết. Và đó là một cái chết thật đau đớn, thật tủi nhục: chết “nhờ” ăn bả chó tự tử…! Cái chết của lão dữ dội vô cùng: lão sùi bọt mép, lão co giật phải hai người đàn ông lực lưỡng đè lên… Cái chết ấy khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của con chó Vàng để rồi rùng mình nhận ra rằng cái chết của lão đâu khác gì cái chết của một con chó.

Đói nghèo như thế, khổ đau như thế nhưng lão không vì vậy mà tha hóa về nhân phẩm. Binh Tư đã tưởng lão xin bả chó để ăn trộm. Ông giáo cũng nghi ngờ lão. Nhưng không, Lão Hạc vẫn giữ được vẹn nguyên tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người nông dân và cả sự tự trọng cao đẹp của mình.

Lão yêu thương con rất mực. Văn học Việt Nam đã có những “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng,… ngợi ca tình phụ tử. Và trong đó cũng cần nhắc đến “Lão Hạc” của Nam Cao. Vì thương con, lão chấp nhận đối mặt với cô đơn, với tuổi già để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão dồn cả yêu thương vào con chó Vàng. Đừng nghĩ đơn giản rằng lão cưng chiều “cậu” Vàng vì đó là con chó khôn, chó đẹp. Điều quan trọng nhất khiến lão yêu quý con Vàng đến mức chia với nó từng cái ăn, cho nó ăn vào bát như người, rồi đến lúc nó chết lão quằn quại, đau đớn,… là bởi con chó là kỉ vật duy nhất mà con trai lão để lại. Nhìn con chó, lão tưởng như được thấy con mình.

Không chỉ vậy, lão thương con đến độ chấp nhận cái đói, rồi cả cái chết chứ không chịu bán đi mảnh vườn của con. Nếu lão bán mảnh vườn, ắt lão sẽ đủ ăn tiêu để vượt qua thời khốn khó. Nhưng lão lại lo khi con trai về không có đất sinh sống làm ăn. Vậy là lão đã nhận lấy cái chết rồi nhờ ông giáo giữ đất cho con. Chao ôi! Tình yêu thương con của lão thật cảm động biết mấy!

Yêu thương những người thân yêu ruột thịt, lão Hạc còn là một người sống đầy tự trọng trước cuộc đời nhiều cám dỗ và tội lỗi. Vào hoàn cảnh như lão, người ta đã có thể ăn trộm, ăn cắp hay thậm chí ăn bám vào người khác (như Binh Tư chẳng hạn, hay người đàn bà trong “Một bữa no” của Nam Cao) nhưng lão Hạc thì không. Với sự giúp đỡ của ông giáo (mà cũng có gì đâu, đó chỉ là củ khoai, củ sắn) lão “từ chối gần như hách dịch” khiến ông giáo nhiều khi cũng chạnh lòng. Binh Tư ngỡ rằng lão xin bả để ăn trộm chó “lão cũng ra phết đấy chứ chẳng vừa đâu”. Đến lượt ông giáo cũng nghi ngờ: “”con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”. Nhưng cuối cùng tất cả đều ngỡ ngàng, sửng sốt trước cái chết đột ngột của lão. Hay còn cách khác: lão có thể bán quách mảnh vườn đi. Nhưng lão lại nghĩ rằng đó là mảnh vườn của con lão. Và lão đã thà chết chứ không ăn của con!

Lòng tự trọng của lão Hạc rực sáng nhất ngay khi thân xác lão đau đớn nhất. Lão đã chọn cái chết, một cái chết khốc liệt để tâm hồn mình được trong sạch, được trọn vẹn tình nghĩa với tất thảy mọi người – kể cả với con chó Vàng tội nghiệp. Nhưng còn một chi tiết khác cũng cảm động vô cùng. Lão đã tính toán để ngay cả khi chết đi rồi cũng không làm phiền đến mọi người: lão đã gửi ông giáo mấy chục đồng bạc, định khi mình nằm xuống thì nhờ ông giáo lo liệu ma chay khỏi làm phiền hàng xóm! Hỡi ôi lão Hạc!

Xây dựng nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình. Điều đó được thể hiện trong đoạn văn miêu tả bộ dạng, cử chỉ của lão Hạc khi kể cho ông giáo chuyện lừa bán cậu Vàng, trong đoạn miêu tả sự vật vã đau đớn dữ dội của lão Hạc trước lúc chết. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong tác phẩm sinh động, ấn tượng, giàu tính tạo hình và hết sức gợi cảm.

Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện tinh thần nhân đạo tiến bộ sâu sắc.

Nam Cao đã đồng cảm đến tận cùng với cái nghèo, cái đói của người nông dân Việt Nam trong nạn đói 1945. Thời cuộc đã dồn họ đến đường cùng và lối thoát nhanh chóng nhất là cái chết nghiệt ngã.

Nhưng trên hết, nhà văn đã biết nâng niu trân trọng vẻ đẹp tâm hồn cao khiết của người nông dân ngay cả khi họ bước vào đường cùng. Không chỉ giàu tình yêu thương, người nông dân còn sống đầy tự trọng. Trong cái đói, tự trọng là thứ gì đó xa xỉ vô cùng. Vì miếng ăn, người ta có thể tàn nhẫn, dã man, thậm chí mất hết nhân tính. Nhưng đáng trọng thay lão Hạc, lão không chỉ giữ được tình thương tươi mát mà còn giữ được lòng tự trọng vàng đá của mình.

Và chính nhờ vẻ đẹp tươi sáng ấy của lão Hạc mà Nam Cao đã chiệm nghiệm: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn”. Chưa đáng buồn bởi còn có những con người cao quý như Lão Hạc. Viết câu văn ấy, nhà văn đã bày tỏ thái độ tin tưởng đối phẩm cách tốt đẹp của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Điều ấy đáng quý vô cùng bởi trước Cách mạng, người nông dân bị coi rẻ như cỏ rác, thậm chí có nhà văn còn nhận định người nông dân “như những con lợn không tư tưởng”. Và bởi thế, tư tưởng của Nam Cao đáng ca ngợi biết bao!

Nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao là một nhân vật có nhiều đặc điểm đáng quý, đáng trân trọng. Từ lão Hạc, người nông dân Việt Nam có quyền tự hào về tâm hồn và phẩm cách của mình. Dựng lên nhân vật này, nhà văn Nam cao đã khẳng định một quan điểm giàu tính nhân đạo sâu sắc.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Bài Soạn Siêu Ngắn: Lão Hạc

Tên thật: Trần Hữu Tri (1915 – 1951)

Quê: Hòa Hậu – Lí Nhân – Hà Nam

Là nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực thời kì (1940 – 1945)

2. Tác phẩm:

Truyện ngắn “Lão Hạc” là truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân, đăng lên báo lần đầu năm 1943.

Phương thức biểu đạt: tự sự kết hợp với miêu tả, biểu cảm.

Ngôi kể thứ nhất (nhân vật ông giáo)

Bố cục: 3 đoạn

Lão Hạc nhà nghèo, vợ đã mất. Lão sống cảnh gà trống nuôi con. Lão Hạc rất khổ tâm vì không đủ tiền cưới vợ cho con. Người con trai phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su biền biệt hơn một năm chẳng có tin tức gì. Lão sống lủi thủi một mình với “cậu vàng”. Lão cố làm thuê làm mướn kiếm ăn, còn tiền thu được từ hoa lợi của mảnh vườn lão dành dụm chờ con về để cưới vợ cho con. Sau trận ốm dài hai tháng, tiền dành dụm cạn kiệt. Rồi bão lại phá sạch hoa màu, lão Hạc lâm vào tình cảnh đói deo đói dắt. Lão Hạc đau lòng quyết định bán “cậu vàng” đi. Sau đó lão nhờ ông giáo giữ hộ mảnh vườn khi nào con trai lão về trao lại cho nó. Lão Hạc lại gửi ông giáo 30 đồng bạc để khi chết có tiền ma chay. Từ đó lão từ chối tất cả mọi sự giúp đỡ của ông giáo. Khi không còn kiếm được gì để ăn lão đã xin bả chó tự tử, lão chết thật đau đớn vật vã thê thảm. Lão ra đi để lại trong lòng ông giáo một nỗi ngậm ngùi xót xa.

Trả lời:

Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xung quanh việc bán chó:

Thứ nhất là tình cảm đối với “Cậu vàng”:

Gọi con chó là “Cậu vàng”

Bắt rận, đem ra ao tắm

Cho ăn cơm…cái bát như một nhà giàu.

Nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng

Chửi yêu nó, nói với nó…cháu bé về bố mó

To tiếng dọa, nắm lấy nó, ôm đầu nó….

Sau khi bán “cậu vàng”:

Lão cố làm ra vui vẻ, cười như mếu

Đôi mắt lão ầng ậc nước

Mặt co rúm, vết nhăn xô lại, ép nước mắt…

Cái đầu ngoẹo miệng móm mém…mếu…

Lão hu hu khóc…

“Thì ra tôi già …lừa một con chó”.

Trả lời:

Muốn bảo toàn căn nhà, mảnh vườn cho con, không muốn gây phiền hà cho hàng xóm láng giềng rồi đón nhận một cái chết dữ dội, bi thảm.

Trả lời:

Thái độ và tình cảm của nhân vật “tôi” đối với lão Hạc diễn biến đa dạng theo tình huống của tác phẩm: từ dửng dưng đến cảm thông, thoáng buồn và nghi ngờ rồi kính trọng.

Trả lời:

Ý nghĩa của nhân vật “tôi” là:

Khi nói chuyện với Binh Tư:

“Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn”

Buồn vì: đói nghèo có thể đổi trắng thay đen, biến người lương thiện như Lão Hạc trở thành kẻ trộm cắp như Binh Tư.Buồn vì: một con người như Lão Hạc đành phải biến chất vì không còn tìm đâu ra miếng ăn tối thiểu hàng ngày.

Khi chứng kiến lão Hạc chết:

“Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn”

Vì không có gì hủy hoại được nhân phẩm của người lương thiện như Lão Hạc để ta có quyền hy vọng và tin tưởng ở con người.

“Hay vẫn đáng buồn theo một nghĩa khác”

Vì người tốt như Lão Hạc mà hoàn toàn vô vọng, phải tìm đến cái chết như một sự giải thoát tự nguyện và bất đắc dĩ

Trả lời:

Cái hay của truyện: chân thực, thấm đượm cảm xúc trữ tình.

Cách xây dựng nhân vật đặc sắc

Lão Hạc giàu tình thương, lòng tự trọng, trung thực

Ông giáo tử tế, biết chia sẻ, đồng cảm.

Trả lời:

Trả lời:

Nói về cuộc đời: những số phận thật nghiệt ngã, thương tâm, nghèo khổ, bần cùng trong xã hội thực dân nửa phong kiến

Nói về tính cách: ta thấy được những phẩm chất đáng quý của con người nông dân thời bấy giờ: trong sạch, lương thiện, sẵn sàng chết và phản kháng lại với sức mạnh tiềm ẩn của mình.