I. Bài Lai Tân
– Bài thơ mang địa danh cụ thể này là bài số 97 trong số 134 bài của tập nhật kí trong tù.(Bài thơ sáng tác ở giai đoạn bốn tháng đầu)
– Lai Tân nằm trên đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc.
+ Phần một: ba câu đầu: Thực trạng bộ máy chính
quyền ở Lai Tân
+ Phần hai: Câu kết: thái độ châm biếm
2.Đọc-hiểu văn bản
Tính hướng ngoại thể hiện rõ trong cách tả.Sự thực
của bộ máy chính quyền Lai Tân: thối nát, vô trách nhiệm. Tạo mâu thuẫn (tiếng cười châm biếm chỉ bật lên khi tạo được mâu thuẫn) với câu cuối.
Ba tiếng: ” Thái bình thiên ” h ạ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, bất ngờ (người đọc chờ một câu kết tựa như một cú đòn sấm sét, hạ gục đối thủ). Giọng điệu có vẻ dửng dưng, nhưng hiệu quả châm biếm thật thâm thuý sâu sắc, đâu cứ phải đao to búa lớ n, mới hại gục được đối phương. Liên hệ hoàn cảnh thực tế: 1942 – Nhật đang xâm lược Trung Quốc mới thấy hết ý nghĩa phê phán mãnh liệt của bài thơ.
– Năm 1939 nguy cơ chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939-1945), thực dân Pháp tăng cường đàn áp cách mạng ở Đông Dương.
Ngày 29/4/1939, Tố Hữu bị bắt, bị giam cầm tại nhà lao Thừa phủ, Huế.
Tháng 7/1939, Tố Hữu sáng tác bài thơ này (sau ba tháng bị giam trong tù)
+ Đoạn ba: còn lại (trở lại với thực tại giam cầm, lòng trĩu nặng nỗi nhớ triền miên)
a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài.
+ Hiu quạnh của không gian đồng vắng.
+ Hiu quạnh của thời gian trưa vắng
+ Hiu quạnh của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn
+ Hiu quạnh của lòng người đang bị giam cầm.
– Liên kết các cảm xúc
– Nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc quạnh hiu
– Tạo nhịp điệu triền miên, cảm xúc da diết khôn nguôi của nỗi nhớ.
Tố Hữu dành nhớ thương cho tất cả mọi người, trong đó nổi bật lên là hình ảnh người lao động. “Tố Hữu là nhà thơ của tình thương mến” (Xuân Diệu) .
b- Diễn biến tâm trạng của chủ thể trữ tình
Tất cả thể hiện nỗi niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do (yếu tố lãng mạn kết hợp với tinh thần cách mạng)
III. Tương Tư
Tương tư : trai gái thương nhớ nhau (Từ điển Hán Việt – Phan Văn Các).
Nguồn gốc của tương tư là khao khát được gần kề, được chung tình, vì thế diễn biến tâm lí của người tương tư rất phức tạp.
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu
Ngỡ c hàng thấu hết tấm lòng tương tư
(Chinh phụ ngâm)
Khi tương tư: người ta thường nhớ nhung, thương cảm, trách móc giận hờn…Để diễn tả tâm trạng ấy, người ta thường dùng cách nói lấp lửng, vòng vo, mát mẻ hay bộc bạch không hề giấu diếm nỗi nhớ thương khao khát dành cho nhau
Lá này gọi lá xoan đào
Tương tư thì gọi thế nào hỡi em…
Mình ơi! Mình ở mình đi
Đi thì ta nhớ ở thì ta thương
Phân li cách trở đoạn trường
Con sông nho nhỏ con đường cát bay
Tương tư ăn phải miếng mồi
Đứng đi trong lửa nằm ngồi trên sương
Băn khuăn dỗi hờn
Khát vọng mong mỏi
Một người – chín nhớ mười mong – một người
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”
– Người con trai mà như thụ động? Chờ đợi mà còn trách móc? Vô lí mà có lí: chàng trai quê yêu vụng nhớ thầm, tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra hờn dỗi, trách nhẹ trách yêu: “Cớ sao”? “Chẳng sang”?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai ngườ i biết cho
+ Không gian cảnh vật: miền quê ngàn đời, tình và cảnh hoà quyện vào nhau, điệp từ “xa xôi” đa nghĩa vừa chỉ khoảng cách, vừa mát mẻ trách móc
Hàng loạt những hình ảnh sóng đôi lãng mạn, thể hiện khát vọng tình yêu gắn liền với hạnh phúc, hôn nhân gia đình:
Bến / đò; Hoa khuê các / bướm giang hồ ; Nhà em / nhà anh ; Giàn giầu / hàng cau ; Thôn Đoài / thôn Đông ; Cau / giầu
Mối duyên quê hoà quyện với cảnh quê ngàn đời
Thôn Đoài / thôn Đông; Tôi / nàng; Bên ấy / bên này ; Hai thôn / một làng ; Bến / đò; Hoa khuê các /bướm giang hồ ; Nhà em / nhà anh ; Giàn giầu / hàng cau ; Thôn Đoài / thôn Đông ; Cau / giầu
*Tâm trạng nhớ nhung được diễn tả qua hình ảnh, địa danh, gần gũi quen thuộc của cuộc sống nông thôn: thôn Đoài, thôn Đông, gió mưa…
* Tâm trạng băn khoăn, dỗi hờn được diễn tả qua hình ảnh, địa danh, từ ngữ gần gũi, quen thuộc, đậm chất dân gian: hai thôn, một lòng, bên ấy, bên này…
*Lời than thở được diễn tả qua hình ảnh quen thuộc
Lá xanh nhuộm, cây lá vàng…
Thơ Nguyễn Bính nghiêng về thể thơ lục bát (tác giả không thiên về thơ lục bát cổ điển như Nguyễn Du), thơ lục bát của Nguyễn Bính phảng phất hơi thở của ca dao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn tổ chức lời thơ, cách đưa khẩu ngữ vào thơ một cách nhuần nhuyễn (câu thơ điệu nói)
+ Thể thơ: đều là lục bát.
Chùm ca dao yêu thương tình nghĩa: kết cấu mạch thơ tương đối dài, tâm trạng thương nhớ thường được gắn với những hình ảnh, thể hiện khoảnh khắc nhất định nào đó của tâm trạng: bên dòng sông (câu 1 và 2); trước cảnh vật: gương soi, cơi đựng trầu (câu 3); Cây đa, con đò (câu 5 và 6)
+ Về cách thể hiện tâm trạng:
Tương tư : cũng mượn những hình ảnh quen thuộc (nhất là những từ sánh đôi): thôn, làng, nắng, mưa, đò giang, con đường, bến, hàng cau, giàn giầu…để tạo nên tình cảm chân quê quen thuộc.
+ Hình tượng nhân vật trữ tình:
Tương đồng: Chùm ca dao là những chàng trai cô gái nông thôn không tên tuổi
Tương tư : là chàng trai, đang yêu vụng nhớ thầm, một cô gái khác xóm nhưng cùng làng…
IV. Chiều xuân
1- Tác giả Anh Thơ (1921- 2005 )
Tên thật: Vương Kiều Ân
Quê Bắc Giang
+ Không gian: Buổi chiều xuân vùng đồng bằng Bắc Bộ (thời gian buổi chiều: gợi cảm giác buồn, thơ mới coi cái buồn, nỗi đau là một phạm trù thẩm mĩ quen thuộc)
+ Hình ảnh bức tranh quê:
Mưa bụi (mưa xuân nho nhỏ, như rắc bụi li ti)
Dòng sông, bến nước, con đò
Quán tranh nhỏ
Hoa xoan tím rụng tơi bời
Cánh đồng lúa, con đê, cỏ non xanh biếc
Con cò, con trâu, sáo, bướm
Hình ảnh con người xuất hiện
– Cái tôi của tác giả rung động trước cảnh vật quen thuộc bình dị. Tình quê bao trùm lên bức tranh quê