Top 9 # Soạn Bài Lai Tân Nhớ Đồng Tương Tư Chiều Xuân Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Đọc Thêm: Lai Tân, Nhớ Đồng, Tương Tư, Chiều Xuân Tiet 88 Doc Them Doc

I. Bài Lai Tân

– Bài thơ mang địa danh cụ thể này là bài số 97 trong số 134 bài của tập nhật kí trong tù.(Bài thơ sáng tác ở giai đoạn bốn tháng đầu)

– Lai Tân nằm trên đường từ Thiên Giang đến Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc.

+ Phần một: ba câu đầu: Thực trạng bộ máy chính

quyền ở Lai Tân

+ Phần hai: Câu kết: thái độ châm biếm

2.Đọc-hiểu văn bản

Tính hướng ngoại thể hiện rõ trong cách tả.Sự thực

của bộ máy chính quyền Lai Tân: thối nát, vô trách nhiệm. Tạo mâu thuẫn (tiếng cười châm biếm chỉ bật lên khi tạo được mâu thuẫn) với câu cuối.

Ba tiếng: ” Thái bình thiên ” h ạ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, bất ngờ (người đọc chờ một câu kết tựa như một cú đòn sấm sét, hạ gục đối thủ). Giọng điệu có vẻ dửng dưng, nhưng hiệu quả châm biếm thật thâm thuý sâu sắc, đâu cứ phải đao to búa lớ n, mới hại gục được đối phương. Liên hệ hoàn cảnh thực tế: 1942 – Nhật đang xâm lược Trung Quốc mới thấy hết ý nghĩa phê phán mãnh liệt của bài thơ.

– Năm 1939 nguy cơ chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939-1945), thực dân Pháp tăng cường đàn áp cách mạng ở Đông Dương.

Ngày 29/4/1939, Tố Hữu bị bắt, bị giam cầm tại nhà lao Thừa phủ, Huế.

Tháng 7/1939, Tố Hữu sáng tác bài thơ này (sau ba tháng bị giam trong tù)

+ Đoạn ba: còn lại (trở lại với thực tại giam cầm, lòng trĩu nặng nỗi nhớ triền miên)

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài.

+ Hiu quạnh của không gian đồng vắng.

+ Hiu quạnh của thời gian trưa vắng

+ Hiu quạnh của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn

+ Hiu quạnh của lòng người đang bị giam cầm.

– Liên kết các cảm xúc

– Nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc quạnh hiu

– Tạo nhịp điệu triền miên, cảm xúc da diết khôn nguôi của nỗi nhớ.

Tố Hữu dành nhớ thương cho tất cả mọi người, trong đó nổi bật lên là hình ảnh người lao động. “Tố Hữu là nhà thơ của tình thương mến” (Xuân Diệu) .

b- Diễn biến tâm trạng của chủ thể trữ tình

Tất cả thể hiện nỗi niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do (yếu tố lãng mạn kết hợp với tinh thần cách mạng)

III. Tương Tư

Tương tư : trai gái thương nhớ nhau (Từ điển Hán Việt – Phan Văn Các).

Nguồn gốc của tương tư là khao khát được gần kề, được chung tình, vì thế diễn biến tâm lí của người tương tư rất phức tạp.

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Sư về sư ốm tương tư

ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu

Ngỡ c hàng thấu hết tấm lòng tương tư

(Chinh phụ ngâm)

Khi tương tư: người ta thường nhớ nhung, thương cảm, trách móc giận hờn…Để diễn tả tâm trạng ấy, người ta thường dùng cách nói lấp lửng, vòng vo, mát mẻ hay bộc bạch không hề giấu diếm nỗi nhớ thương khao khát dành cho nhau

Lá này gọi lá xoan đào

Tương tư thì gọi thế nào hỡi em…

Mình ơi! Mình ở mình đi

Đi thì ta nhớ ở thì ta thương

Phân li cách trở đoạn trường

Con sông nho nhỏ con đường cát bay

Tương tư ăn phải miếng mồi

Đứng đi trong lửa nằm ngồi trên sương

Băn khuăn dỗi hờn

Khát vọng mong mỏi

Một người – chín nhớ mười mong – một người

“Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”

– Người con trai mà như thụ động? Chờ đợi mà còn trách móc? Vô lí mà có lí: chàng trai quê yêu vụng nhớ thầm, tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra hờn dỗi, trách nhẹ trách yêu: “Cớ sao”? “Chẳng sang”?

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai, hỏi ai ngườ i biết cho

+ Không gian cảnh vật: miền quê ngàn đời, tình và cảnh hoà quyện vào nhau, điệp từ “xa xôi” đa nghĩa vừa chỉ khoảng cách, vừa mát mẻ trách móc

Hàng loạt những hình ảnh sóng đôi lãng mạn, thể hiện khát vọng tình yêu gắn liền với hạnh phúc, hôn nhân gia đình:

Bến / đò; Hoa khuê các / bướm giang hồ ; Nhà em / nhà anh ; Giàn giầu / hàng cau ; Thôn Đoài / thôn Đông ; Cau / giầu

Mối duyên quê hoà quyện với cảnh quê ngàn đời

Thôn Đoài / thôn Đông; Tôi / nàng; Bên ấy / bên này ; Hai thôn / một làng ; Bến / đò; Hoa khuê các /bướm giang hồ ; Nhà em / nhà anh ; Giàn giầu / hàng cau ; Thôn Đoài / thôn Đông ; Cau / giầu

*Tâm trạng nhớ nhung được diễn tả qua hình ảnh, địa danh, gần gũi quen thuộc của cuộc sống nông thôn: thôn Đoài, thôn Đông, gió mưa…

* Tâm trạng băn khoăn, dỗi hờn được diễn tả qua hình ảnh, địa danh, từ ngữ gần gũi, quen thuộc, đậm chất dân gian: hai thôn, một lòng, bên ấy, bên này…

*Lời than thở được diễn tả qua hình ảnh quen thuộc

Lá xanh nhuộm, cây lá vàng…

Thơ Nguyễn Bính nghiêng về thể thơ lục bát (tác giả không thiên về thơ lục bát cổ điển như Nguyễn Du), thơ lục bát của Nguyễn Bính phảng phất hơi thở của ca dao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn tổ chức lời thơ, cách đưa khẩu ngữ vào thơ một cách nhuần nhuyễn (câu thơ điệu nói)

+ Thể thơ: đều là lục bát.

Chùm ca dao yêu thương tình nghĩa: kết cấu mạch thơ tương đối dài, tâm trạng thương nhớ thường được gắn với những hình ảnh, thể hiện khoảnh khắc nhất định nào đó của tâm trạng: bên dòng sông (câu 1 và 2); trước cảnh vật: gương soi, cơi đựng trầu (câu 3); Cây đa, con đò (câu 5 và 6)

+ Về cách thể hiện tâm trạng:

Tương tư : cũng mượn những hình ảnh quen thuộc (nhất là những từ sánh đôi): thôn, làng, nắng, mưa, đò giang, con đường, bến, hàng cau, giàn giầu…để tạo nên tình cảm chân quê quen thuộc.

+ Hình tượng nhân vật trữ tình:

Tương đồng: Chùm ca dao là những chàng trai cô gái nông thôn không tên tuổi

Tương tư : là chàng trai, đang yêu vụng nhớ thầm, một cô gái khác xóm nhưng cùng làng…

IV. Chiều xuân

1- Tác giả Anh Thơ (1921- 2005 )

Tên thật: Vương Kiều Ân

Quê Bắc Giang

+ Không gian: Buổi chiều xuân vùng đồng bằng Bắc Bộ (thời gian buổi chiều: gợi cảm giác buồn, thơ mới coi cái buồn, nỗi đau là một phạm trù thẩm mĩ quen thuộc)

+ Hình ảnh bức tranh quê:

Mưa bụi (mưa xuân nho nhỏ, như rắc bụi li ti)

Dòng sông, bến nước, con đò

Quán tranh nhỏ

Hoa xoan tím rụng tơi bời

Cánh đồng lúa, con đê, cỏ non xanh biếc

Con cò, con trâu, sáo, bướm

Hình ảnh con người xuất hiện

– Cái tôi của tác giả rung động trước cảnh vật quen thuộc bình dị. Tình quê bao trùm lên bức tranh quê

Soạn Bài Chiều Xuân Ngắn Nhất

Để đáp ứng được mong muốn của các bạn học sinh có 1 bản Soạn văn 11 ngắn nhất, dễ hiểu nhưng vẫn phải đầy đủ các ý chính, các thầy cô giáo tại TOPLOIGIAI đã biên soạn bài Chiều xuân ngắn nhất theo phương pháp đó. Hi vọng bản soạn văn này sẽ giúp các bạn hiểu bài nhanh chóng hơn.

Khái quát tác phẩm Chiều xuân

Soạn bài Chiều xuân

Câu 1

Bức tranh mùa xuân trước hết hiện lên qua hình ảnh mưa bụi- một hình ảnh quen thuộc là đặc trưng của mùa xuân. Không gian êm đềm, dịu nhẹ với con đò lười biếng, quán tranh đứng im lim, chòm xoan rơi rụng. Nhịp đập nhẹ nhàng của cảnh vật như phối hợp với đất trời, mọi thứ như đang ngủ yên chờ đợi tiếng gọi để bừng tỉnh.

Cảnh vật xuất hiện những chuyển động mạnh hơn, nhanh hơn với đàn sáo đen sà xuống, với đàn bướm rập rờn, đàn trâu thong thả gặm bỏ. Cái nên được vẽ lên là thảm cỏ xanh biếc trên đường đê. Dường như cảnh vật đã rũ bỏ hết cái yên lặng, trầm tĩnh ở trên, khoác lên mình màu áo mới đầy sức sống hơn.

Theo sự thay đổi của thời gian, nhịp sống ngày càng nhanh mạnh dần, đặc biệt là ở đoạn thơ cuối. Không gian vẫn giữ màu sắc cũ nhưng đã chuyển động nhanh hơn, bước những bước rộn ràng hơn với hình ảnh đàn cò bay vụt qua. Hình ảnh con người hiện lên là thiếu nữ xinh đẹp với yếm thắm tràn đầy sức sống. Bức tranh hiện lên với nhựa sống căng tràn nơi nơi, sự sống mới, niềm vui mới đã đến bao trùm lên làng quê.

Cảnh vật thay đổi dần, ngày càng trở nên năng động, tràn đầy sức sống, tuy là cảnh buổi chiều nhưng lại rộn ràng, tươi vui như bắt đầu một ngày mới, như một lời khẳng định: mùa xuân về mang lại sức sống tươi mới cho vạn vật.

Sự chuyển động của không khí tương ứng với dự chuyển động của cảnh vật, theo dòng chảy hoạt động từ cái tĩnh lặng sang nhộn nhịp, rộn ràng đầy sức sống.

Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy diễn tả rõ nét đặc điểm của cảnh vật, đồng thời sử dụng thành công các hình ảnh gần gũi, quen thuộc với làng quê Việt Nam, tạo nên nét bình dị, gần gũi của bài thơ.

Bài thơ sử dụng hàng loạt các từ láy: im lìm, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả

Sự vật được miêu tả đầy sức gợi cảm qua các từ láy, mỗi vật đều mang nét đặc trưng riêng, góp phần vẽ lên bức tranh sinh động, chân thực về làng quê Việt Nam trong buổi chiều xuân.

Soạn Bài Tương Tư Siêu Ngắn

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Câu 1 (trang 50 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2) Tâm trạng và tình cảm của chàng trai:

– Nỗi nhớ mong tha thiết, cồn cào, trở thành “bệnh tương tư” ở chàng trai thôn Đoài:

+ Bộc bạch chân thành nỗi nhớ: ngồi nhớ, chín nhớ mười mong (thành ngữ).

+ Nỗi nhớ ngự trị tự nhiên, da diết, trở thành “bệnh tương tư”: so sánh “bệnh tương tư” của mình với “bệnh gió mưa” của giời, giãi bày tương tư thức mấy đêm rồi.

+ Sự chờ mong triền miên, khắc khoải: Ngày qua ngày …/…thành cây lá vàng.

– Những lời kể lể, trách móc vô lí nhưng đáng yêu và đáng thương của chàng trai:

+ Cớ sao bên ấy… bên này?: trách cô gái không chủ động tìm đến với mình.

+ Nhưng đây cách …/…mà tình xa xôi: kể lể về nghịch lí trong mối tình của mình, đó là khoảng cách tình cảm xa xôi giữa hai người dù khoảng cách địa lí thật gần gũi.

+ Tương tư…/ Biết cho ai, hỏi ai người biết cho: trách than cô gái chẳng hay biết nỗi nhung nhớ và tình cảm chân thành của mình.

– Khát khao gắn bó lâu dài, niềm mong ngóng vừa thiết tha vừa vô vọng:

+ Hi vọng được gặp gỡ, được thành đôi nhưng chỉ nung nấu trong vô vọng, thầm lặng: Bao giờ bến mới gặp đò / Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

+ Khát khao được nên duyên vợ chồng trong sự gắn bó lâu dài: hình ảnh giầu, cau (trong 4 câu cuối)là biểu tượng cho phong tục cưới xin ở nước ta.

Câu 2 Câu 2 (trang 50 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2) Cách bày tỏ tình yêu và giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von của bài thơ:

– Cách bày tỏ tình yêu ý nhị, tinh tế, vận dụng cách nói bóng gió đặc trưng của ca dao dân ca với các biện pháp tu từ quen thuộc, hình ảnh mộc mạc, lối so sánh ví von duyên dáng, hấp dẫn:

+ Lối so sánh ví von: sử dụng biện pháp hoán dụ: thôn Đoài (chỉ chàng trai) – thôn Đông (chỉ cô gái), ẩn dụ ( bến, đò, hoa khuê các, bướm giang hồ), nhân hóa ( Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? ).

+ Sử dụng lối nói sóng đôi, tương đồng: Gió mưa…/…của tôi yêu nàng.

+ Dùng nhiều câu hỏi tu từ.

+ Lối nói giãi bày, bộc bạch thường thấy trong ca dao yêu thương tình nghĩa.

– Giọng điệu thơ: khi tha thiết cồn cào, khi trách cứ tủi hờn, khi hi vọng nhưng nhìn chung giọng điệu chủ đạo là giọng chân thành, trầm lắng, vô vọng.

Câu 3 Câu 3 (trang 50 SGK Ngữ Văn 11 Tập 2) Qua bài “Tương tư”, chứng minh trong thơ Nguyễn Bính có “hồn xưa của đất nước”:

– Ngôn ngữ mộc mạc, gần gũi, mang đậm cách biểu đạt và bày tỏ bóng gió, xa xôi trong tình yêu của người dân quê Bắc Bộ Việt Nam.

– Tình cảm, cảm xúc chân thành, tế nhị, kín đáo.

– Thể loại thơ dân tộc: lục bát.

– Hình ảnh mộc mạc, đậm chất làng Việt: thôn Đoài, thôn Đông, trầu, cau.

– Lối so sánh, ví von và cách bày tỏ tình cảm đậm đà phong vị ca dao dân ca.

Bố cục Bố cục: 2 phần

– Phần 1 (16 câu đầu): Nỗi tương tư của chàng trai.

– Phần 2 (4 câu còn lại): Ước vọng lứa đôi hòa hợp.

ND chính

– Bài thơ là tiếng lòng về một tình yêu trong sáng, đơn phương, mạnh mẽ.

– Thế hiện tình cảm chân thành, thấm đượm hồn quê Việt với nhiều nét đẹp văn hóa dân gian.

chúng tôi

Soạn Văn Bài: Chiều Xuân (Anh Thơ)

Đánh giá bài viết Soạn văn bài: Chiều xuân (Anh Thơ) Bố cục: 3 phần – Phần 1 (khổ 1): cảnh xuân trên bến vắng. – Phần 2 (khổ 2): cảnh xuân trên đường đê. – Phần 3 (khổ 3): cảnh xuân trong ruộng lúa. Câu 1: Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều tà – tiêu biểu cho cảnh …

Bố cục: 3 phần

– Phần 1 (khổ 1): cảnh xuân trên bến vắng.

– Phần 2 (khổ 2): cảnh xuân trên đường đê.

– Phần 3 (khổ 3): cảnh xuân trong ruộng lúa.

Câu 1:

Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều tà – tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, mặc dù thế vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vằng lặng nữa.

Buổi chiều xuân rất đặc trưng trước hết chính là ở cảnh mưa: mưa bụi, mưa xuân thưa thớt bay. Mưa gọi những mầm non thức dậy. Cảnh đầu tiên lọt vào tầm quan sát của tác giả là cảnh bến đò. Nhưng như đã nói, bức tranh không được chụp vào lúc đông vui nhộn nhịp, nên như hòa vào cái yên ả của buổi chiều xuân kia, con đò cũng “biếng lười nằm mặc nước sông trôi”. Điểm xuyết liên tục thêm vào bức tranh ấy là quán tranh vắng, là những chùm hoa xoan tím “rụng tơi bời”.

Cảnh từ gần được mở rộng thêm, ca và xa hơn. Nhưng vẫn là nét đặc trưng của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ: cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo đen, những cánh bướm rập rờn, … Khổ thứ hai có một hình ảnh thơ thật độc đáo và xuất sắc:

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Ba khổ thơ gần như chỉ là những câu thơ tả cảnh. Có thể nói cả bài thơ hợp thành một bức tranh quê giản dị, mộc mạc, thanh nhã, hơi gợi buồn vì cảnh vắng quá, yên tĩnh quá.

Câu 2:

Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời ở nông thôn nước ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả, … tất cả đều có dáng khoan thai. Phải chờ đợi đến hai câu cuối của bài thơ, người đọc mới thấy xuất hiện hình ảnh con người. Nhưng con người sao cũng thụ động quá:

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra, Làm giật mình một cô nàng yếm thắm Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa

Câu thơ chụp vội đúng cái thời khắc lao động của người thiếu nữ. Một cô thôn nữ chăm chỉ trong một buổi chiều quê tĩnh lặng. Câu thơ tả động nhưng thực ra là để nói cái tĩnh. Và nói cái tĩnh tất nhiên cũng lại để tiếp tục nhấn mạnh vào cái nhịp sống rất bình yên của một vùng quê mà dường như tất cả vẫn còn rất nguyên sơ.

Câu 3:

Trong bài thi sĩ đã dùng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mổ vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả, … . Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả, … và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như của nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.