Top 12 # Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Lớp 9 Trang 93 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Trang 93 Sgk Văn 9

+ Nàng trơ trọi giữa không gian, thời gian, mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gần” như gợi lên hình ảnh lầu Ngưng Bích cao ngất nghểu, trơ trọi giữa mênh mông trời nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân”. Nàng chỉ còn biết làm bạn với mây đèn. Nàng rơi vào hoàn cảnh cô đơn tuyệt đôi.

2. Tám câu thơ tiếp theo trực tiếp nói lên tâm trạng của Kiều

a) Đầu tiên Kiều nhớ tới Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lí, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ người tình là nhớ đến tình yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ tới lời thề đôi lứa: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Một lần khác, nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích: “Tin sương luống những rày mong mai chờ”. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Câu thơ “Tấm son gột rửa, bao giờ cho phai” có hai cách hiểu: tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc tấm lòng son trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa?

b) Tiếp đó Kiều nhớ đến cha mẹ. Nghĩ tới song thân, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng, khi chiều tựa cửa ngóng tin con trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà nàng không chăm nom được và hiện thời ai người săn sóc? Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ “cách mấy nằng mưa” vừa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đôi với cảnh vật và người. Lần nào khi nhớ về cha mẹ, Kiều củng nhớ “Nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy con cái của cha mẹ.

c) Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Kiều là đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ của bản thân để nghĩ về Kim Trọng, ngiỏl về cha mẹ Kiều là người tình thủy chung, người con hiếu thảo, người cl tấm lòng vị tha đáng trọng.

3. Tám câu thơ cuối tả cảnh để ngụ tình

a) Diễn tả tâm trạng Kiều, Nguyền Du đã chọn cách biểu hiện “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”. Mồi biểu hiện của cảnh phù hợp với từng trạng thái tình cảm. Kiều nhớ cha mẹ, nhớ quê hương thì: “Buồn trông cửa bể chiều hôm – Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Kiều buồn nhớ người yêu và cũng là xót xa cho duyên phận thì: “Buồn trông ngọn nước mới sa – Hoa trôi man mác biết là về đâu”. Lúc buồn cho cảni ngộ chính mình thì: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh – Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh ti tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuôn mặt duềnh và tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và, quả thực, ngay sau lúc này, Kiều đẫ mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

b) Về mặt nghệ thuật, ta cần chú ý cụm từ “buồn trông” mở đầu cáu thơ sáu chừ, tạo âm hưởng trầm buồn. “Buồn trông” đã trở thành đièp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng.

Soạn Bài Lớp 9: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Soạn bài lớp 9: Kiều ở lầu Ngưng Bích

Soạn bài: Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:

Kiều bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích: khoá xuân;

Vẻ mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trăng gần… Đúng là: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.

2. Nỗi nhớ thương của Kiều được diễn tả sâu sắc trong tám câu thơ tiếp theo:

Kiều nhớ tới Kim Trọng, tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin (Tưởng người dưới nguyệt chén đồng – Tin sương luống những rày trông mai chờ); tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận: Bên trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con (Xót người tựa cửa hôm mai), ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian (Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm), day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành (Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ).

Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.

3. Ở tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng:

Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:

Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,Buồn trông ngọn nước mới sa,Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG 1. Đây là đoạn trích miêu tả cảnh Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật tuy đẹp nhưng lòng người vô cùng sầu não đã khiến cho cảnh vật cũng trở nên não nề. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. 2. Khi đọc, chú ý nhấn giọng ở tám câu cuối, thể hiện tâm trạng rối bời, tuyệt vọng của Thý Kiều trong hoàn cảnh éo le. Hoa trôi man mác biết là về đâu. Theo chúng tôi Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh là:

Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là:

Như vậy, từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Cụm từ Buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.

Qua đoạn trích này, chúng ta sẽ hiểu thêm nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du, nhất là quan niệm của ông về mối quan hệ giữa cảnh và tình (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”).

Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820.

Tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên.

Quê quán: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Cuộc đời

Ông sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và sáng tạo nghệ thuật.

Ông sống trong thời đại đau khổ, bế tắc và nhiều biến động.

Ông là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, Nguyễn Du đã sống nhiều năm lưu lạc tiếp xúc với nhiều cảnh đời và thân phận con người trong thời đại loạn lạc, dâu bể.

Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du rất phong phú và đồ sộ.

Ông có ba tập thơ chữ Hán với 243 bài, sáng tác chữ Nôm xuất sắc nhất là “Truyện Kiều”.

Đoạn trích được trích trong tác phẩm Truyện Kiều, được viết bằng chữ Nôm.

Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc).

Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn đợi bà bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.

Văn bản được bố cục thành ba phần.

Phần 1: 6 câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn của Kiều.

Phần 2: 8 câu còn lại: Nỗi nhớ của Kiều

Phần 3: Còn lại: Tâm trạng của Thúy Kiều.

Không gian: Lầu Ngưng Bích.

Thời gian: Mây sớm, đèn khuya, trăng.

Cảnh vật

Non xa – trăng gần.

Mây – đèn.

Cồn cát nọ – bụi hồng kia.

Bốn bề bát ngát.

⇒ Nghệ thuật liệt kê, đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bộn bề, bát ngát mênh mông đối lập với lòng người cô đơn trống vắng nơi đất khách quê người.

Câu thơ “nửa tình“: vẻ đẹp trước lầu Ngưng Bích đã được nàng gửi gắm và tình cảm nhớ quê hương. Lúc này tình cảm và cảnh vật cứ đan xen,hoà trộn làm cho tâm trạng bẽ bàng, sầu tủi.

⇒ Cảnh vật dưới cái nhìn của Kiều được hiện ra đẹp nhưng đượm buồn.

Nhớ người yêu.

Nhớ cha mẹ.

Nỗi nhớ Kim Trọng.

Nhớ đêm thề nguyện với Kim Trọng dưới đêm trăng.

Hình dung Kim Trọng nơi xa xôi đang mong chờ tin tức. Kiều cảm thấy mình có lỗi.

“Tấm son gột rửa“: động từ mạnh “gột rửa” diễn tả tấm lòng thuỷ chung, mối tình đầu đẹp đẽ không thể gột rửa được cho dù nàng muốn lãng quên nó đi.

⇒ Tác giả dùng từ chọn lọc diễn tả nỗi nhớ người yêu đau đáu, da diết, đầy cảm động.

Nỗi nhớ cha mẹ.

“xót“: xót thương cha mẹ ngày ngày “tựa cửa” ngóng tin con.

“Quạt nồng ấp lạnh“: lo cho cha mẹ, thương cha mẹ già yếu mà mình không được chăm sóc. Kiều tự trách mình không chu đáo.

Điển tích “Sân Lai” để nói đến tấm lòng hiếu thảo của Kiều chỉ biết lo cho người khác mà không nghĩ đến mình.

⇒ Kiều là người thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha.

Điệp ngữ: “buồn trông” 4 lần, kết hợp một hệ thống từ láy và đặc biệt là mỗi cặp câu thơ là một cảnh vật.

Cảnh vật: hình ảnh cánh buồm “xa xa” thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm gợi cảnh đời lưu lạc nơi chân trời góc bể, nỗi nhớ quê hương da diết.

Cảnh vật: cánh hoa trôi man mác gợi lên số phận lênh đênh vô định của Kiều.

Cảnh vật: nội cỏ rầu rầu gợi về một tương lai mờ mịt trong xã hội phong kiến suy tàn không lối thoát mà thân phận nhỏ bé của con người không biết làm sao đây.

Cảnh vật: “gió cuốn mặt duềnh“, “ầm ầm tiếng sóng” kêu gợi tâm trạng hãi hùng, lo sợ trước số phận, cuộc sống đang đe doạ bủa vây xung quanh nàng.

Nghệ thuật: vần bằng, hệ thống từ láy tạo nên nỗi buồn tầng tầng lớp lớp.

Miêu tả cảnh vật từ xa đến gần diễn tả tâm trạng từ chỗ nhớ quê hương, người thân đến lo buồn cho tương lai, sợ hãi, rùng rợn cho số phận của mình.

⇒ Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả xây dựng một bức tranh tâm trạng đặc sắc nhất, hay nhất của Truyện Kiều: nỗi buồn đau của Kiều như lan toả sang cảnh vật đã xâm chiếm lòng nàng.

Ghi chú:

Nội dung: Đoạn thơ thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Nghệ thuật: Miêu tả nội tâm nhân vật, diễn biến tâm trạng được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Điệp ngữ.

Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Hay Nhất

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nói lên hoàn cảnh đơn côi, cô độc và tâm trạng buồn tủi của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đây là một đoạn trích có giá trị nghệ thuật cao khi miêu tả thiên nhiên hết sức tinh tế cùng với nghệ thuật điệp ngữ, điền cố…. tài ba của Nguyễn Du. Để nắm được nội dung đoạn trích này, Cunghocvui xin gửi đến các bạn phần Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy đủ nhất ngay sau đây!

– Đoạn trích nằm ở phần 2 của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc

– Sau khi Kiều biết mình bị Tú bà lừa vào lầu xanh, Kiều định tự vẫn. Tú Bà khi ấy đã lừa Kiều rằng sẽ tìm cho nàng một người tử tế nhưng lại giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, đợi thời cơ thực hiện một âm mưu khác.

Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đoạn trích có thể được chia làm 3 phần như sau:

Phần 1: 6 câu thơ đầu

Nội dung: Khung cảnh thiên nhiên trơ trọi, mênh mang nơi lầu Ngưng Bích

Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo

Nội dung: Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu của Kiều khi một thân một mình, không ai nương tựa

Phần 3: 8 câu thơ cuối

Nội dung: Tâm trạng buồn tủi, cô đơn, tuyệt vọng của Kiều

Câu 1 (Trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Khung cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích:

– “Vẻ non xa” – “tấm trăng gần”, Kiều chỉ có vầng trăng bầu bạn

– “Bốn bề bát ngát xa trông” không gian mênh mông, rợn ngợp, không một bóng người

– “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”: dù ở rất gần nhưng vẫn không chạm tới được, Kiều vẫn chỉ đơn độc một mình

Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều là từ sáng sớm đến đêm khuya, thời gian cứ quay vòng từ ngày này sang ngày khác.

Qua khung bức tranh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích, ta có thể thấy Kiều đang phải cô đơn một mình, nàng bị giam lỏng mà không biết bao giờ mới được thả ra. Cảnh vật buồn và mênh mang như số phận của nhân vật này.

Câu 2 (Trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ người yêu được thể hiện qua 8 câu thơ tiếp theo:

– Hy sinh tình yêu cá nhân để làm tròn bổn phận của một người con, Kiều cảm thấy day dứt, có lỗi với Kim Trọng nên nàng đã nghĩ tới Kim Trọng trước tiên. Như vậy là hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc đi xa, vì đã bán thân chuộc cha nên cũng đỡ lo hơn. Còn đối với Kim Trọng, người nàng thương, trong khi chàng chưa biết tin gì về gia đình Kiều. Đặc biệt, nàng day dứt, đau đớn, cảm thấy tội lỗi khi không giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng.

– Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh: nhiều hình ảnh ước lệ như: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử,… Và việc dùng từ ngữ đã góp phần thể hiện tâm trạng đau đớn, day dứt với Kim Trọng cũng như thể hiện nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ ở quê nhà.

– Qua nỗi nhớ thương của Thúy Kiều, em thấy Kiều là một người con hiếu thảo với cha mẹ, một người tình chung thủy. Kiều luôn biết nghĩ cho người khác mặc dù mình cũng đang trong cảnh cô đơn, mất tự do.

Câu 3 (Trang 96 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Thiên nhiên đượm buồn qua cái nhìn và tâm trạng của người con gái đa sầu, đa cảm:

– Cảnh vật được miêu tả trong 8 câu thơ cuối không phải là cảnh thực mà nó được nhìn bởi tâm trạng u uất, u sầu của Thúy Kiều

– Mỗi cảnh vật đều có nét riêng, đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều:

+ Cánh buồm nhỏ xa xăm, vô định giống như thân phận của Kiều, cuộc đời mất tự do, mất phương hướng.

+ Hình ảnh cánh hoa bị vùi dập cũng giống như số kiếp bi đát của Kiều.

+ Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời của nàng, cũng rất tẻ nhạt, vô vị.

+ Gió cuốn, sóng ầm ầm cũng chính là những sóng gió ập đến trong cuộc đời mà Kiều phải trải qua.

– Cách dùng điệp ngữ trong 8 câu thơ cuối:

+ Điệp ngữ “Buồn trông” được lặp lại tới 4 lần và đều nằm ở vị trí đầu những câu lục và càng tạo âm hưởng trầm buồn cho câu thơ.

+ Kết cấu trùng điệp, như những gợn sóng đang dâng lên trong lòng Kiều

+ Kết hợp với đó là cái nhìn từ xa đến gần, càng thu vào trong tâm tư của Kiều nỗi cô đơn, tâm trạng sầu nhớ cùng với nỗi lo sợ về tương lai phía trước.

+ Kiều như cảm thấy đỉnh điểm của sự cô đơn, nỗi buồn cứ thế kéo dài, cứ dồn dập, trực chờ dâng lên trong lòng Kiều