Top 9 # Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Hay Nhất Vietjack Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Hay Nhất

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã nói lên hoàn cảnh đơn côi, cô độc và tâm trạng buồn tủi của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đây là một đoạn trích có giá trị nghệ thuật cao khi miêu tả thiên nhiên hết sức tinh tế cùng với nghệ thuật điệp ngữ, điền cố…. tài ba của Nguyễn Du. Để nắm được nội dung đoạn trích này, Cunghocvui xin gửi đến các bạn phần Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy đủ nhất ngay sau đây!

– Đoạn trích nằm ở phần 2 của Truyện Kiều: Gia biến và lưu lạc

– Sau khi Kiều biết mình bị Tú bà lừa vào lầu xanh, Kiều định tự vẫn. Tú Bà khi ấy đã lừa Kiều rằng sẽ tìm cho nàng một người tử tế nhưng lại giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, đợi thời cơ thực hiện một âm mưu khác.

Phân tích 8 câu thơ cuối Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đoạn trích có thể được chia làm 3 phần như sau:

Phần 1: 6 câu thơ đầu

Nội dung: Khung cảnh thiên nhiên trơ trọi, mênh mang nơi lầu Ngưng Bích

Phần 2: 8 câu thơ tiếp theo

Nội dung: Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu của Kiều khi một thân một mình, không ai nương tựa

Phần 3: 8 câu thơ cuối

Nội dung: Tâm trạng buồn tủi, cô đơn, tuyệt vọng của Kiều

Câu 1 (Trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Khung cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích:

– “Vẻ non xa” – “tấm trăng gần”, Kiều chỉ có vầng trăng bầu bạn

– “Bốn bề bát ngát xa trông” không gian mênh mông, rợn ngợp, không một bóng người

– “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”: dù ở rất gần nhưng vẫn không chạm tới được, Kiều vẫn chỉ đơn độc một mình

Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều là từ sáng sớm đến đêm khuya, thời gian cứ quay vòng từ ngày này sang ngày khác.

Qua khung bức tranh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích, ta có thể thấy Kiều đang phải cô đơn một mình, nàng bị giam lỏng mà không biết bao giờ mới được thả ra. Cảnh vật buồn và mênh mang như số phận của nhân vật này.

Câu 2 (Trang 95 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ người yêu được thể hiện qua 8 câu thơ tiếp theo:

– Hy sinh tình yêu cá nhân để làm tròn bổn phận của một người con, Kiều cảm thấy day dứt, có lỗi với Kim Trọng nên nàng đã nghĩ tới Kim Trọng trước tiên. Như vậy là hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc đi xa, vì đã bán thân chuộc cha nên cũng đỡ lo hơn. Còn đối với Kim Trọng, người nàng thương, trong khi chàng chưa biết tin gì về gia đình Kiều. Đặc biệt, nàng day dứt, đau đớn, cảm thấy tội lỗi khi không giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng.

– Cùng là nỗi nhớ nhưng cách nhớ khác nhau với những lí do khác nhau nên cách thể hiện cũng khác nhau. Nghệ thuật dùng từ ngữ, hình ảnh: nhiều hình ảnh ước lệ như: chén đồng, tin sương, tấm son, quạt nồng ấp lạnh, sân lai, gốc tử,… Và việc dùng từ ngữ đã góp phần thể hiện tâm trạng đau đớn, day dứt với Kim Trọng cũng như thể hiện nỗi xót xa, lo lắng cho cha mẹ ở quê nhà.

– Qua nỗi nhớ thương của Thúy Kiều, em thấy Kiều là một người con hiếu thảo với cha mẹ, một người tình chung thủy. Kiều luôn biết nghĩ cho người khác mặc dù mình cũng đang trong cảnh cô đơn, mất tự do.

Câu 3 (Trang 96 SGK Ngữ văn 9 tập 1)

Thiên nhiên đượm buồn qua cái nhìn và tâm trạng của người con gái đa sầu, đa cảm:

– Cảnh vật được miêu tả trong 8 câu thơ cuối không phải là cảnh thực mà nó được nhìn bởi tâm trạng u uất, u sầu của Thúy Kiều

– Mỗi cảnh vật đều có nét riêng, đồng thời lại có nét chung để diễn tả tâm trạng Kiều:

+ Cánh buồm nhỏ xa xăm, vô định giống như thân phận của Kiều, cuộc đời mất tự do, mất phương hướng.

+ Hình ảnh cánh hoa bị vùi dập cũng giống như số kiếp bi đát của Kiều.

+ Nội cỏ rầu rầu một màu đơn điệu như màu sắc cuộc đời của nàng, cũng rất tẻ nhạt, vô vị.

+ Gió cuốn, sóng ầm ầm cũng chính là những sóng gió ập đến trong cuộc đời mà Kiều phải trải qua.

– Cách dùng điệp ngữ trong 8 câu thơ cuối:

+ Điệp ngữ “Buồn trông” được lặp lại tới 4 lần và đều nằm ở vị trí đầu những câu lục và càng tạo âm hưởng trầm buồn cho câu thơ.

+ Kết cấu trùng điệp, như những gợn sóng đang dâng lên trong lòng Kiều

+ Kết hợp với đó là cái nhìn từ xa đến gần, càng thu vào trong tâm tư của Kiều nỗi cô đơn, tâm trạng sầu nhớ cùng với nỗi lo sợ về tương lai phía trước.

+ Kiều như cảm thấy đỉnh điểm của sự cô đơn, nỗi buồn cứ thế kéo dài, cứ dồn dập, trực chờ dâng lên trong lòng Kiều

Soạn Bài: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

1. Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:

– Vẻ mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trăng gần… Đúng là: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

– Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.

2. Nỗi nhớ thương của Kiều được diễn tả sâu sắc trong tám câu thơ tiếp theo:

– Kiều nhớ tới Kim Trọng, tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin ( Tưởng người dưới nguyệt chén đồng – Tin sương luống những rày trông mai chờ); tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận: Bên trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

– Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con ( Xót người tựa cửa hôm mai), ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian ( Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm), day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành ( Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ).

Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.

3. Ở tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng:

– Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:

+ Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

+ Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh là:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

+ Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là:

Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,

Như vậy, từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

– Cụm từ Buồn trônglặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.

1. Đây là đoạn trích miêu tả cảnh Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật tuy đẹp nhưng lòng người vô cùng sầu não đã khiến cho cảnh vật cũng trở nên não nề.

Qua đoạn trích này, chúng ta sẽ hiểu thêm nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du, nhất là quan niệm của ông về mối quan hệ giữa cảnh và tình (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”).

2. Khi đọc, chú ý nhấn giọng ở tám câu cuối, thể hiện tâm trạng rối bời, tuyệt vọng của Thý Kiều trong hoàn cảnh éo le.

Soạn Bài Lớp 9: Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Soạn bài lớp 9: Kiều ở lầu Ngưng Bích

Soạn bài: Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN 1. Trong sáu câu thơ đầu, khung cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian được nhìn qua con mắt của nhân vật, bộc lộ hoàn cảnh tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Thuý Kiều:

Kiều bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích: khoá xuân;

Vẻ mênh mông, chống chếnh của không gian tô đậm tình cảnh cô đơn, trơ trọi của Kiều: non xa, trăng gần, bốn bề bát ngát, xa trông, non xa, trăng gần… Đúng là: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Hình ảnh trăng, mây sớm đèn khuya biểu đạt sự quay vòng của thời gian. Cùng với những hình ảnh gợi tả không gian, sự tuần hoàn đều đặn của thời gian càng nhấn đậm thêm tình cảnh cô đơn, buồn bã của Kiều.

2. Nỗi nhớ thương của Kiều được diễn tả sâu sắc trong tám câu thơ tiếp theo:

Kiều nhớ tới Kim Trọng, tưởng tượng ra cảnh chàng Kim cũng đang nhớ về mình, mong ngóng mà vẫn bặt tin (Tưởng người dưới nguyệt chén đồng – Tin sương luống những rày trông mai chờ); tâm trạng Kiều đau đớn, xót xa, tủi phận: Bên trời góc bể bơ vơ – Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Kiều nhớ đến cha mẹ, thương cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin con (Xót người tựa cửa hôm mai), ngậm ngùi vì tuổi già trước sự khắc nghiệt của thời gian (Sân Lai cách mấy nắng mưa – Có khi gốc tử đã vừa người ôm), day dứt vì mình không được ở bên để báo đáp công ơn sinh thành (Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ).

Nguyễn Du để Kiều nhớ tới Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật trong cảnh ngộ cụ thể, đảm bảo tính chân thực cho hình tượng. Trong tình cảnh bị Mã Giám Sinh làm nhục, lại ép tiếp khách làng chơi nên hiện trạng tâm lí Kiều là nỗi đau đớn về “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, là nỗi buồn nhớ người yêu, nuối tiếc mối tình đầu đẹp đẽ. Kiều đã hi sinh thân mình vì đạo hiếu, khi lâm vào tình cảnh đáng thương, nàng lại một lòng nhớ đến Kim Trọng, nhớ thương cha mẹ, quên cả cảnh ngộ của mình. Trong đoạn trích này, Kiều hiện ra với đức vị tha cao đẹp.

3. Ở tám câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã cho thấy một bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh vật được miêu tả qua tâm trạng, tâm trạng nhuốm lên cảnh vật, cảnh vật thể hiện tâm trạng:

Sắc thái của bức tranh thiên nhiên thể hiện từng trạng thái tình cảm của Thuý Kiều:

Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật là:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,Buồn trông ngọn nước mới sa,Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG 1. Đây là đoạn trích miêu tả cảnh Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích. Cảnh vật tuy đẹp nhưng lòng người vô cùng sầu não đã khiến cho cảnh vật cũng trở nên não nề. Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. 2. Khi đọc, chú ý nhấn giọng ở tám câu cuối, thể hiện tâm trạng rối bời, tuyệt vọng của Thý Kiều trong hoàn cảnh éo le. Hoa trôi man mác biết là về đâu. Theo chúng tôi Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh là:

Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh là:

Như vậy, từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mỗi tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Cụm từ Buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông, kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.

Qua đoạn trích này, chúng ta sẽ hiểu thêm nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du, nhất là quan niệm của ông về mối quan hệ giữa cảnh và tình (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”).

Bài 7. Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Môn: Ngữ văn 9Tiết 36KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Người thực hiện:Nguyễn Thị Thu Hiền Đơn vị: Trường THCS TÂN HÀCâu 1: Đọc thuộc lòng đoạn trích Cảnh ngày xuân Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du.( 5 Đ )KTMCâu 2: Nêu nội dung và nghệ thuật đoạn trích Cảnh ngày xuân trích Truyện Kiều của Nguyễn Du? ( 3 Đ ) Cảnh ngày xuânNgày xuân con én đưa thoi,Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.Cỏ non xanh tận chân trời,Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Thanh minh trong tiết tháng ba,Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.Gần xa nô nức yến anh,Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.Dập dìu tài tử giai nhân,Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.

,Đáp án câu 1:Tà tà bóng ngả về tây,Chị em thơ thẩn dan tay ra về.Bước dần theo ngọn tiểu khê,Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.Nao nao dòng nước uốn quanh,Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngangĐáp án câu 2:1.Nội dung: Đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên lễ hội, mùa xuân tươi đẹp trong sáng, là một trong những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. 2.Nghệ thuật: Bố cục cân đối, hợp lí.Cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, Hán việt, từ ghép, từ láy, giàu chất tạo hình.Kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả và gợi tả có tính chất điểm xuyến, chấm phá.Sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ. Tiết 36Kiều ở lầu ngưng bíchI. Đọc – hiểu văn bản1.Vị trí đoạn trích

– Đoạn trích gồm 22 câu. Từ câu 1033 – 1054, nằm ở phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).Em hãy cho biết số câu, vị trí đoạn trích? * Khái niệm “ngôn ngữ độc thoại” và “tả cảnh ngụ tình” – Ngôn ngữ độc thoại thường là lời nói thầm bên trong, nhân vật tự nói với chính mình. – Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng. Cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng.2. Đọc .Đọc: giọng chậm, buồn, chú ý nhấn mạnh các từ bẽ bàng, buồn trông.Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông,Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai,Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ômBuồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa,Hoa trôi man mác biết là về đâu ? Buồn trông nội cỏ rầu rầu,Chân mây mạt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi 3. Giải thích từ khó:Khóa xuân: Khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung; ở đây chỉ việc Kiều bị giam lỏng.(4) Bẽ bàng: Xấu hổ, tủi thẹn.(5) Chén đồng: Chén rượu thề nguyền, cùng lòng, cùng dạ với nhau.(7) Tấm son: Tấm lòng son, chỉ tấm lòng chung thủy gắn bó.(8) Tựa cửa: ý nói người mẹ tựa cửa trông chờ con.(9) Quạt nồng ấp lạnh: Mùa hè, trời nóng lực thì quạt cho cha mẹ ngủ; mùa đông trời lạnh giá thì vào nằm trước để khi cha mẹ ngủ chỗ nằm đã ấm sẵn. Ý cả câu nói về sự lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ.

(10) Sân Lai: sân nhà lão lai tử, đây chỉ sân nhà cha mẹ Thúy Kiều. Theo Hiếu tử truyện: Lão Lai Tử người nước Sở thời Xuân Thu rất có hiếu, tuy đã già mà còn nhảy múa ngoài sân cho cha mẹ xem để mua vui cho cha mẹ.

(10) Gốc tử: gốc cây tử (cây thị), chỉ cha mẹ. Cả câu ý nói cha mẹ đã già rồi (theo điển cũ nói cây dâu và cây tử là những cây do cha mẹ trồng ở quanh nhà).KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du) Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông,Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Xót người tựa cửa hôm mai,Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Buồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa,Hoa trôi man mác biết là về đâu ? Buồn trông nội cỏ rầu rầu,Chân mây mạt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.BỐ CỤC 3 PHẦNĐoạn 1(6 câu đầu) Khung cảnh lầu Ngưng Bích và tâm trạng của KiềuĐoạn 2(8 câu tiếp) Nỗi nhớ người thânĐoạn 3(8 câu cuối)

Tâm trạng buồn lo của Kiều

4. Bố cục KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du)II. Tìm hiểu văn bản:I/ Đọc- hiểu văn bản1.Khung cảnh lầu Ngưng Bích và tâm trạng của Kiều. KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH(Trích “Truyện Kiều”-Nguyễn Du)II. Tìm hiểu văn bản:1.Khung cảnh lầu Ngưng Bích và tâm trạng của Kiều. Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,Vẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.