Top 4 # Soạn Bài Khóc Dương Khuê Vịnh Khoa Thi Hương Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài: Khóc Dương Khuê

Xin chào các em! Tiếp tục với chuyên mục soạn văn ngày hôm nay, Văn mẫu bất hủ sẽ hướng dẫn các em soạn văn bản: Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến. Bài thơ được biên soạn trong chương trình SGK Ngữ Văn 11 Tập 1, mời các em cùng theo dõi!

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Bố cục của bài thơ: gồm 3 đoạn:

Đoạn 1: hai câu đầu: nỗi đau xót khi nghe tin bạn mất

Đoạn 2: từ câu 3 đến câu 22: Nhớ lại những kỉ niệm trước đây giữa 2 người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

Đoạn 3: còn lại: Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỉ.

Câu 2:

Tình bạn thắm thiết, thủy chung của hai người được thể hiện:

* Hai câu thơ đầu là nỗi đau đớn của Nguyễn Khuyến khi nghe tin bạn mất:

Từ ngữ: Thôi đã thôi rồi, man mác, ngậm ngùi.

Nhịp thơ bị phá vỡ 2/1/3: Như một tiếng nấc tức tưởi, tắc nghẹn trước nỗi đau mất bạn của nhà thơ.

* Đoạn thơ thứ hai: tác giả gợi nhớ lại những kỉ niệm trong quá khứ giữa 2 người:

Cùng thi đỗ, cùng làm quan, cùng nhau trải qua nhiều thú vui tao nhã.

Khi về già vẫn thường xuyên viếng thăm nhau.

* Đoạn thơ cuối: là nỗi trống trải của nhà thơ khi bạn qua đời.

Nguyễn Khuyến cảm thấy cuộc sống như chẳng còn ý vị gì, vô cùng trống trải.

Nỗi đau được thể hiện ở nhiều cung bậc: lúc đột ngột, lúc ngậm ngùi, luyến tiếc, lúc thì lắng đọng thấm sâu chi phối tuổi già của tác giả.

Câu 3:

Đây là một bài thơ có nghệ thuật tu từ đặc sắc: nói giảm nói tránh, điệp ngữ, sử dụng câu hỏi tu từ.

Ngoài ra, thành công về nghệ thuật của bài thơ, chúng ta không thể không kể đến:

Ngôn ngữ thơ: đạt đến mức trong sáng tuyệt vời: lặp 5 từ “không” trong tổng số 14 từ để diễn tả một cái không trống rỗng đến ghê gớm khi mất bạn.

Cách sử dụng từ ngữ và hình ảnh, sử dụng điển tích, âm điệu của câu thơ song thất lục bát và nhân vật trữ tình tự bộc lộ tâm trạng.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Khóc Dương Khuê

Soạn bài Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)

Bố cục

– Đoạn 1 (hai câu đầu): Giới thiệu về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê

– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.

Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:

– Đoạn 1 (hai câu đầu): Giới thiệu về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê

– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.

Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): *Kỉ niệm của tác giả với người bạn của mình

– Cùng nhau thi đỗ làm quan

– Cùng nhau dong chơi khắp chốn non nước

– Cùng ngân nga hát ả đào

– Cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời

* Nỗi đau, trống vắng khi mất bạn

– Chân tay rụng rời khi nghe tin bạn mất

– Rượu ngon không có bạn hiền

– Đàn kia gảy cũng không ai thấu hiểu

⇒ Cho thấy tình cảm thắm thiết giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. CÙng với tâm trạng lúc đột ngột, lúc ngậm ngùi, luyến tiếc, lúc lắng đọng thấm sâu chi phối tuổi già của tác giả. Hai câu kết là nỗi đau không nước mắt, nỗi đau như dồn vào lòng.

Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

– Nghệ thuật nói giảm nói tránh “Bác Dương thôi đã thôi rồi”

– Nghệ thuật sử dụng các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối bài thơ. Hàng loạt các câu thơ như: Làm sao bác vội về ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên, … Để rồi lắng đọng trong những câu thơ hụt hẫng, chơi vơi

– Điệp từ không dùng rất hợp hoàn cảnh và đặc sắc. Chỉ một cặp lục bát mà chồng xếp 5 chữ không diễn tả thật đúng cái trống vắng khi mất bạn. Để rồi kết đọng trong tiếng khóc đáng thương của người bạn già tri kỉ. Câu thơ cuối buông nhẹ mà khơi gợi, xót đau, hờn tủi.

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k4: chúng tôi

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Soạn Bài Khóc Dương Khuê Ngắn Gọn

Soạn bài lớp 11 ngắn gọn nhất

Soạn bài Khóc Dương Khuê ngắn gọn

1. Soạn bài Khóc Dương Khuê ngắn gọn mẫu 1

1.1. Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:

– Đoạn 1 (hai câu đầu): Nỗi đau đột ngột khi mất bạn.

– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.

1.2. Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Tình bạn thắm thiết, thủy chung giữa hai người được tác giả diễn đạt qua sự vận động của cảm xúc thơ.

– Hai câu thơ đầu: Nỗi đau đớn của Nguyễn Khuyến khi nghe tin bạn mất:

+ Từ ngữ: Thôi đã thôi rồi, man mác, ngậm ngùi.

→ Tin bạn mất đến với Nguyễn Khuyến một cách đột ngột, bàng hoàng, sửng sốt.

+ Nhịp thơ bị phá vỡ 2/1/3: Như một tiếng nấc tức tưởi, tắc nghẹn trước nỗi đau mất bạn của nhà thơ.

– Đoạn thơ thứ 2: Tác giả gợi nhớ lại những kỉ niệm trong quá khứ:

+ Cùng thi đỗ, cùng làm quan, cùng nhau trải qua nhiều thú vui tao nhã.

→ Là bạn tri âm, tri kỉ.

+ Về già vẫn viếng thăm nhau.

→ Dòng hồi tưởng hiện lên một tình bạn đẹp. Đó là lí do khiến Nguyễn Khuyến đau đớn, sững sờ khi nghe tin bạn qua đời.

– Đoạn thơ thứ 3 (đoạn còn lại): Nỗi trống trải khi bạn qua đời: Mất bạn, Nguyễn Khuyến cảm thấy vô cùng trống trải, cuộc sống chẳng còn ý vị. Nỗi đau thể hiện ở nhiều cung bậc: lúc đột ngột, lúc ngậm ngùi, luyến tiếc, lúc lắng đọng thấm sâu chi phối tuổi già của tác giả. Hai câu kết là nỗi đau không nước mắt, nỗi đau như dồn vào lòng:

Tuổi già hạt lệ như sương Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan

1.3. Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

– Bài thơ rất thành công trong nghệ thuật tu từ như nói giảm nói tránh, điệp ngữ. Nhưng đặc sắc nhất nhất là nghệ thuật sử dụng các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối bài thơ.

– Ngôn ngữ thơ đạt đến mức trong sáng tuyệt vời: Lặp 5 từ không trong tổng số 14 từ để diễn tả một cái không trống rỗng đến ghê gớm khi mất bạn.

– Cách sử dụng từ và hình ảnh, sử dụng điển tích, âm điệu của câu thơ song thất lục bát, nhân vật trữ tình tự bộc lộ tâm trạng.

2. Soạn bài Khóc Dương Khuê ngắn gọn mẫu 2

Bố cục

– Đoạn 1 (hai câu đầu): Giới thiệu về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê

– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.

2.1. Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:

– Đoạn 1 (hai câu đầu): Giới thiệu về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê

– Đoạn 2 (từ câu 3 đến câu 22): Nhớ lại những kỷ niệm giữa hai người và thể hiện tâm trạng thời cuộc của nhà thơ.

– Đoạn 3 (phần còn lại): Nỗi đau mất bạn và tâm sự cô đơn vì thiếu tri kỷ.

2.2. Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

* Kỉ niệm của tác giả với người bạn của mình

– Cùng nhau thi đỗ làm quan

– Cùng nhau dong chơi khắp chốn non nước

– Cùng ngân nga hát ả đào

– Cùng nhau trải qua những buổi hoạn nạn, vật đổi sao rời

* Nỗi đau, trống vắng khi mất bạn

– Chân tay rụng rời khi nghe tin bạn mất

– Rượu ngon không có bạn hiền

– Đàn kia gảy cũng không ai thấu hiểu

⇒ Cho thấy tình cảm thắm thiết giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. CÙng với tâm trạng lúc đột ngột, lúc ngậm ngùi, luyến tiếc, lúc lắng đọng thấm sâu chi phối tuổi già của tác giả. Hai câu kết là nỗi đau không nước mắt, nỗi đau như dồn vào lòng.

2.3. Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

– Nghệ thuật nói giảm nói tránh “Bác Dương thôi đã thôi rồi”

– Nghệ thuật sử dụng các câu hỏi tu từ trong đoạn cuối bài thơ. Hàng loạt các câu thơ như: Làm sao bác vội về ngay; Vội vàng sao đã mải lên tiên, … Để rồi lắng đọng trong những câu thơ hụt hẫng, chơi vơi

– Điệp từ không dùng rất hợp hoàn cảnh và đặc sắc. Chỉ một cặp lục bát mà chồng xếp 5 chữ không diễn tả thật đúng cái trống vắng khi mất bạn. Để rồi kết đọng trong tiếng khóc đáng thương của người bạn già tri kỉ. Câu thơ cuối buông nhẹ mà khơi gợi, xót đau, hờn tủi.

Hướng Dẫn Soạn Bài Vịnh Khoa Thi Hương

Tú Xương là một người rất lận đận trong chuyện thi cử. Ông thi nhiều lần và đều hỏng, chỉ đỗ đến tú tài. Ông lại sống và thời buổi “mưa Âu gió Mĩ”, thời kì khủng hoảng của những qua hệ đạo đức truyền thống. Cay đắng của số phận riêng cùng với những điều ngang tai trái mắt của cuộc sống thị thành đã khiến Tú Xương trở thành một nhà thơ trào phúng tiêu biểu của văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

2. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm :

Thực dân Pháp tạm thời hoàn thành cuộc xâm lược Việt Nam, văn hoá phương Tây tràn vào lấn át văn hoá truyền thống. Hán học suy vong, các nhà Nho đua nhau “vứt bút lông đi” đổi sang cầm cây bút chì để kiếm sống. Chuyện thi cử của Nho học trở thành trò hề, cảnh tượng các kì thi vô cùng thảm hại. Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều là những nhà nho có lòng tự trọng, họ đều rất đau lòng và cay đắng ghi lại trong một loạt bài thơ. Trong đó có Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương.

II. Hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm

1. Vịnh khoa thi Hương là một bài thơ trữ tình – trào phúng. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học. Khoa thi Hương 1897 ấy được miêu tả với cảm hứng trào phúng. Bức tranh trường thi hiện lên với cảnh tượng thật nhốn nháo, lộn xộn. Khoa thi Hương ấy gợi cảm giác đau xót trước hiện thực đất nước. Trong ngày tuyển chọn nhân tài cho đất nước vốn đã chẳng được trang nghiêm mà cái bóng của kẻ xâm lược vẫn bao trùm không tha. Hiện thực đen tối của dân tộc phần nào đwocj táI hiện trong bàI thơ này.

2. Tú Xương thuộc lớp nhà Nho theo nghiệp khoa cử cuối cùng của xã hội phong kiến Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, việc tổ chức các kì thi Hán học chỉ còn là hình thức. Khoa thì năm Đinh Dậu được nhà thơ giới thiệu một cách giới thiệu rất tự nhiên. Kì thi được tổ chức theo đúng thời gian quy định, ba năm một lần. Nhưng có điểm không bình thường: Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Tác giả không dùng thi chung hoặc một cách diễn đạt khác trang trọng hơn mà dùng từ “thi lẫn”. Cách nói ấy đã dự báo tính chất không nghiêm túc của kì thi. Khoa thi Hương 1897 ấy được miêu tả với cảm hứng trào phúng rõ rệt. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh sự nhốn nháo, lộn xộn, nhếch nhác của trường thi và sự xuất hiện ồn ào, ầm ĩ của bọn quan thầy xâm lược. Qua đó thể hiện tâm sự xót xa của một nhà Nho có tự trọng và lòng căm thù giặc của một người dân yêu nước thương nòi.

3. Bốn câu thơ 3,4,5,6 tả cảnh trường thi đều được dùng cấu trúc đảo trật tự thành phần câu và phép đối ngẫu. Hai câu thực, tác giả đảo trật tự thành phần phụ chỉ đặc điểm lên trước. Hai từ “lôi thôi”, “ậm oẹ” đứng đầu câu nhấn mạnh điểm nổi bật nhất của cảnh thi, thật bi hài. Sĩ tử là nhân vật chính của kì thi. Khi Nho học đang ở thời thịnh vượng, các sĩ tử khi đi thi thường có người hầu đi theo cho nên họ không phải làm công việc “đeo lọ” bên mình như sĩ tử trong cảnh thi này. Những sĩ tử đến kì thi trông thật nhếc nhách và tội nghiệp. Còn “quan trường”, những người có trách nhiệm tổ chức và trông coi kì thi thì cũng thảm hại không kém. “Lôi thôi” đối với “ậm oẹ” thật là cân xứng. Lẽ ra họ phải dõng dạc, oai phong trong tư thế của mệnh quan triều đình. Tú Xương đã chọn từ ngữ rất đắt. Không cần nhiều chỉ hai từ đó thôi đã đủ tái hiện bộ mặt nhếch nhác đến thảm hại của kì thi Hán học cuối cùng này.

4. Câu kết là tâm sự đau xót, chua chát của nhà thơ trước hiện thực đất nước. Câu thơ vừa là lời tự vấn mình, vừa hướng đến những người đồng môn. Bài thơ thể hiện nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trước vận mệnh dân tộc. Nỗi đau đớn xót xa ấy thể hiện tác giả là người trọng danh dự, danh dự của các trí thức nho học và là người có tấm lòng với dân với nước. Là con người biết trọng danh dự, với tấm lòng lo nước thương đời, ông Tú muốn đánh thức ý thức dân tộc trong con người Việt nam, nhất là những người tài, những người có trách nhiệm và có khả năng cứu nước, cứu đời. Giọng điệu chính của bài thơ là giọng điệu trào phúng, nhưng ở hai câu kết, tác giả đã dùng giọng điệu trữ tình.

5. Vịnh Khoa thi Hương thể hiện tấm lòng tha thiết tình đời của nhà thơ trào phúng Tú Xương. Sống trong hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX, biết trọng danh dự, biết đau xót trước hiện thực dân tộc như Tú Xướng là một thái độ rất đáng trân trọng. Những nhà Nho như Tú Xương không đủ sức, đủ điều kiện để đứng lên cầm súng chống giặc, cải tạo đất nước nhưng họ đã dùng ngòi bút để thể hiện tấm lòng mình với dân tộc và đánh thức ý thức dân tộc trong mỗi người Việt Nam. Những nhà thơ như Tú Xương đã góp phần làm nên sức mạnh Việt Nam.