Top 3 # Soạn Bài Đồng Chí Lớp 9 Kì 1 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lớp 9: Đồng Chí Soạn Bài Môn Ngữ Văn Lớp 9 Học Kì I

Soạn bài lớp 9: Đồng Chí Soạn bài môn Ngữ văn lớp 9 học kì I

Soạn bài: Đồng Chí

Bài giảng Đồng chí Ngữ văn 9 Soạn bài lớp 9: Trau dồi vốn từ Soạn bài lớp 9: Lục Vân Tiên gặp nạn Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu Soạn bài lớp 9: Miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự

ĐỒNG CHÍ

Chính Hữu I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí (1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao.

2. Không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm toả ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, vì đồng đội.

Những người đồng đội ấy thường là những người “nông dân mặc áo lính”. Điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chuaSúng bên súng đầu sát bên đầuĐêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ 4. Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê hương: Ruộng nương anh gửi bạn thân càyAnh với tôi biết từng cơn ớn lạnhCuộc đời gió bụi pha sương máuTây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm. 5. Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu: Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiII. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG 1. Rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Bài thơ được viết theo thể tự do, độ dài ngắn của các câu khác nhau, do đó cần kéo dài giọng hoặc ngừng nghỉ chính xác để giữ nhịp thơ, thể hiện tình cảm sâu lắng về tình đồng đội. 2. Tập phân tích và nêu cảm nhận về hình tượng: Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo. Đầu súng trăng treo. Đợt rét bao lần xé thịt daKhuôn mặt đã lên màu tật bệnhĐâu còn tươi nữa những ngày hoa!Lòng tôi xao xuyến tình thương xótMuốn viết bài thơ thấm lệ nhòa Sốt run người vừng trán ướt mồ hôiÁo anh rách vaiQuần tôi có vài mảnh váMiệng cười buốt giáChân không giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay. Gian nhà không, mặc kệ gió lung layGiếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.Anh với tôi đôi người xa lạTự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

“Anh và tôi” từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:

Những người “nông dân mặc áo lính” ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những “người lính cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người. “Súng bên súng” là chung chiến đấu, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng” (Theo Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB GD, 2001, tr 380). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa “anh” và “tôi”.

3. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí”. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng “đồng chí” xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí – chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của “một cây” trong sự giao kết của “rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:

Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:

Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:

Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, “Đem thân xơ xác giữ sơn hà”, Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính.

Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: “Anh với tôi biết…”, “áo anh… – Quần tôi…”, “tay nắm lấy bàn tay”. Cái “Miệng cười buốt giá” kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì thế.

Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính – súng – vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về không gian, để thành: “Đầu súng trăng treo”. Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam.

Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính – những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu như thế.

Soạn Bài Lớp 9: Đồng Chí

Soạn bài lớp 9: Đồng Chí

Soạn bài: Đồng Chí

Soạn bài ĐỒNG CHÍ

Chính Hữu I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nói đến thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp không thể không nói đến Đồng chí (1948) của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao.

2. Không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà không lạnh lẽo. Hơi ấm toả ra từ tình người, từ tình tri kỉ, kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khó bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống trong tình đồng đội, vì đồng đội.

Những người đồng đội ấy thường là những người “nông dân mặc áo lính”. Điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,

“Anh và tôi” từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ trở thành tri kỉ:

Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Những người “nông dân mặc áo lính” ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những “người lính cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xoá bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người. “Súng bên súng” là chung chiến đấu, “đầu sát bên đầu” thì chung rất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn chung nhau ý nghĩ, lí tưởng” (Theo Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB GD, 2001, tr 380). Đến khi đắp chung chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt. Để nói về sự gần gũi, sẻ chia, về cái thân tình ấm áp không gì hơn là hình ảnh đắp chăn chung. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa “anh” và “tôi”.

3. Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí”. Nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng “đồng chí” xuất hiện trong bài thơ, làm thành riêng một câu thơ. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩa là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí – chiến sĩ hoà mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghĩa là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của “một cây” trong sự giao kết của “rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, thân mật lại vừa cao quý, lớn lao là vì thế.

4. Ở phần tiếp theo của bài thơ, với những chi tiết, hình ảnh cụ thể tác giả đã thể hiện tình cảm sâu sắc của những người đồng chí. Trước hết, họ cùng chung một nỗi nhớ quê hương: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Trong nỗi nhớ quê hương ấy có nỗi nhớ ruộng nương, nhớ ngôi nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Nhưng ruộng nương cũng như nhớ tay ai cày xới, ngôi nhà nhớ người trong lúc gió lung lay, và giếng nước, gốc đa cũng đang thầm nhớ người ra đi. Nỗi nhớ ở đây là nỗi nhớ hai chiều. Nói giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính cũng là thổ lộ nỗi nhớ cồn cào về giếng nước, gốc đa. Tình quê hương luôn thường trực, đậm sâu trong những người đồng chí, cũng là sự đồng cảm của những người đồng đội. Người lính hiện ra cứng cỏi, dứt khoát lên đường theo tiếng gọi non sông song tình quê hương trong mỗi người không khi nào phai nhạt. Và bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính, là đồng đội:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Kể sao xiết những gian khổ mà người lính phải trải qua trong chiến đấu. Nói về cái gian khổ của người lính trong kháng chiến chống Pháp, ta nhớ đến cái rét xé thịt da trong bài Lên Cấm Sơn của Thôi Hữu:

Cuộc đời gió bụi pha sương máu Đợt rét bao lần xé thịt da Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh Đâu còn tươi nữa những ngày hoa! Lòng tôi xao xuyến tình thương xót Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa

Nhớ đến cái ác nghiệt của bệnh sốt rét trong Tây Tiến của Quang Dũng:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm.

Ta cũng có thể thấy cái buốt giá của núi rừng Việt Bắc, cái ớn lạnh toát mồ hôi của bệnh sốt rét trong những câu thơ của Chính Hữu. Nhưng nếu như Thôi Hữu viết về cái rét xé thịt da để khắc hoạ những con người chấp nhận hi sinh, “Đem thân xơ xác giữ sơn hà”, Quang Dũng nói đến sốt rét để tô đậm vẻ đẹp bi tráng của những người chiến sĩ thì Chính Hữu nói về cái rét, cái ác nghiệt của sốt rét là để nói về tình đồng đội, đồng chí trong gian khổ, là sự thấu hiểu, cảm thông giữa những người lính.

Trong bất cứ sự gian khổ nào cũng thấy họ sát cánh bên nhau, san sẻ cho nhau: “Anh với tôi biết…”, “áo anh… – Quần tôi…”, “tay nắm lấy bàn tay”. Cái “Miệng cười buốt giá” kia là cái cười trong gian khổ để vượt lên gian khổ, cười trong buốt giá để lòng ấm lên, cũng là cái cười đầy cảm thông giữa những người đồng đội. Giá buốt mà không lạnh lẽo cũng là vì thế.

5. Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại, khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.

Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Trên sắc xám lạnh của nền cảnh đêm rừng hoang sương muối, hiện lên hình ảnh người lính – súng – vầng trăng. Dưới cái nhìn của người trong cuộc, người trực tiếp đang cầm súng, trong một sự kết hợp bất ngờ, đầu súng và vầng trăng như không còn khoảng cách xa về không gian, để thành: “Đầu súng trăng treo”. Sự quan sát là hiện thực, còn sự liên tưởng trong miêu tả là lãng mạn. Hình ảnh súng tượng trưng cho hành động chiến đấu, tinh thần quyết chiến vì đất nước. Trăng tượng trưng cho cái đẹp yên bình, thơ mộng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” mang ý nghĩa khái quát về tư thế chủ động, tự tin trong chiến đấu, tâm hồn phong phú của người lính. Nói rộng ra, hai hình ảnh tương phản sóng đôi với nhau tạo nên biểu tượng về tinh thần, ý chí sắt đá mà bay bổng, trữ tình của dân tộc Việt Nam.

Chung nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính – những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ Đồng chí mang vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu như thế.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Đồng Chí Lớp 9 Ngắn Gọn

Hướng dẫn soạn bài Đồng chí của Tố Hữu trong chương trình Ngữ văn 9 ngắn gọn

Tình đồng chí thật thiêng liêng, giản dị và chân thành

Trong kháng chiến, tình đồng chí tuy đơn giản nhưng lại vô cùng thiêng liêng, gắn bó. Và trong bài học ngày hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu bài thơ Đồng chí do Chính Hữu sáng tác. Bài thơ được viết vào giai đoạn nước ta đang kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã thể hiện được tình đồng chí, đồng đội sẵn sàng hi sinh để giành nền độc lập cho nước nhà. Sức mạnh đồng đội, đồng chí cùng vẻ đẹp tinh thần của người lính đã được tác giả khắc họa rất rõ nét, giàu tính biểu cảm. Để tìm hiểu rõ hơn về nội dung cũng như giá trị của bài thơ, trong bài viết này Vforum sẽ hướng dẫn các em soạn bài Đồng chí trong Ngữ văn 9 ngắn gọn nhất.

Trả lời:

Dòng thứ 7 của bài thơ đặc biệt ở chỗ tác giả chỉ ghi đúng 2 từ: Đồng chí.

Mạch cảm xúc, suy nghĩ trong bài thơ đã được Chính Hữu triển khai theo 2 mạch: bắt đầu từ tình cảm riêng tư (anh và tôi) sau đó phát triển, tạo nên tình đồng chí, đồng đội có chung nhiệm vụ, mục đích.

Dòng thơ thứ 7 mặc dù chỉ có 2 từ đơn giản là Đồng chí nhưng qua đó tác giả muốn nhấn mạnh cụm từ này, làm nổi bật được tình đồng chí vô cùng thiêng liêng.

Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí. Đấy là những cơ sở sau: – Xuất thân cùng gia cảnh làng quê nghèo khổ, cùng giai cấp. (Quê hương anh … cày lên sỏi đá) – Cùng một lòng yêu nước, chung chí hướng, chung nhiệm vụ kháng chiến giành độc lập và cùng chịu đựng những nỗi đau, gian khổ. (Anh với tôi …sát bên đầu) Từ những cơ sở trên, Chính Hữu đã cho chúng ta thấy rõ được tình đồng đôi là như thế nào, và những gian khổ mà họ phải gánh chịu vì một nhiệm vụ giành độc lập cho Tổ quốc.

Những chi tiết, hình ảnh biểu hiện tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh tinh thần của những người lính cách mạng trong bài thơ là: – Sẵn sàng hi sinh để giành độc lập cho Tổ quốc, gửi ruộng nương nhờ chăm sóc. (Ruộng nương anh … kệ gió lung lay) – Phải chịu đựng trong môi trường chiến tranh khốc liệt mà điều kiện sinh hoạt cũng thiếu thốn. (Áo anh rách … vài mảnh vá) – Luôn sát cánh chiến đấu cùng nhau, luôn có ý chí, niềm hi vọng mãnh liệt về nền hòa bình độc lập dân tộc.

Những câu thơ “Đêm nay rừng … trăng treo” mang đến cho em suy nghĩ về người lính và cuộc chiến đấu: – Ba hình ảnh gắn kết được nổi bật trong các câu thơ đó là: người lính, khẩu sung và vầng trăng. – Cuộc chiến đấu vô cùng khốc liệt, nơi núi rừng hoang sơ, đầy hiểm trở, trời đầy sương muối lạnh buốt cả người. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào, thì người lính vẫn mạnh mẽ, sẵn sàng chiến đấu. Gần như họ không biết lạnh, gian khổ bởi nhờ có tình đồng chí, đồng đội đã sưởi ấm lẫn nhau. – Chính Hữu cũng đã khắc họa được hình ảnh tình đồng chí, đồng đội vô cùng đẹp đẽ, giản dị, luôn kề vai sát cánh bên nhau vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. – Tác giả đưa vào câu thơ hình ảnh vầng trăng treo trên đầu súng như muốn bày tỏ niềm hi vọng một nền độc lập, tự do cho đất nước.

Soạn Bài Đồng Chí Của Chính Hữu Lớp 9

Soa bai Dong Chi – Đề bài: Soạn bài Đồng chí của Chính Hữu lớp 9 1. Câu thơ “Đồng chí” vang lên như lời tuyên bố, lời khẳng định mối quan hệ giữa những người lính vốn chẳng hề quen biết trước đó, đây là sự xác lập quan hệ bằng hữu đồng đội, đồng chí thân thiết. Câu thơ phá vỡ cấu trúc thơ bảy chữ của bài thơ, nhưng chính sự đột phá này lại tạo ra một kết cấu ấn tượng, tạo điểm nhấn cho bài thơ, thể hiện được đề tài chủ đạo của bài thơ, đó là tình đồng …

– Đề bài:

1. Câu thơ “Đồng chí” vang lên như lời tuyên bố, lời khẳng định mối quan hệ giữa những người lính vốn chẳng hề quen biết trước đó, đây là sự xác lập quan hệ bằng hữu đồng đội, đồng chí thân thiết. Câu thơ phá vỡ cấu trúc thơ bảy chữ của bài thơ, nhưng chính sự đột phá này lại tạo ra một kết cấu ấn tượng, tạo điểm nhấn cho bài thơ, thể hiện được đề tài chủ đạo của bài thơ, đó là tình đồng chí.

Mạch cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ sau câu thơ “Đồng chí” cũng có sự thay đổi hoàn toàn:

+ Nếu như trước câu thơ “Đồng chí”, những người lính chỉ là những người hoàn toàn xa lạ, chẳng hề quen biết, họ gặp nhau cùng nhau chiến đấu là do có chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. + Thì sau đó khi đã trở thành những người đồng chí thì họ trở nên khăng khít hơn, chia sẻ cùng nhau không chỉ những khó khăn của cuộc sống khắc nghiệt nơi chiến trường mà còn sát cánh bên nhau trong chiến đấu.

2. Sáu câu thơ đầu tiên, Chính Hữu đã nêu ra những cơ sở của tình đồng chí, đó là sự tương đồng trong hoàn cảnh sống cũng như lí tưởng xả thân đầy cao đẹp cho Tổ quốc, quê hương:

+ Hoàn cảnh sống: Họ đều là những người nông dân nghèo đến từ khắp các vùng miền của tổ quốc, họ đều là những người nông dân sống bằng canh tác nông nghiệp, cùng trải qua những khó khăn, khắc nghiệt của hoàn cảnh sống “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. + Lí tưởng xả thân: Ở những người lính ấy đều có tình yêu quê hương, đất nước đầy mãnh liệt, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, họ sẵn sàng xả thân, cống hiến sức mình của công cuộc giải phóng đất nước, bảo vệ quê hương cũng như bảo vệ cuộc sống của chính những người lao động nghèo như họ.

3. Biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội của những người lính, những cơ sở để làm nên sức mạnh tinh thần:

+ Sẵn sàng hi sinh vì độc lập của đất nước, ở ý thức mạnh mẽ của người lính, họ nhờ nhau chăm sóc ruộng vườn, gia đình của nhau. + Chia sẻ với nhau những điều kiện sinh hoạt đầy thiếu thốn nơi chiến trường khắc nghiệt: “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”, “miệng cười buốt giá”, “chân không giày”. + Cùng nhau chiến đấu: không gian đầy khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, nhưng họ vẫn kề vai sát cánh đứng bên nhau chờ giặc tới, thực hiện hành động bảo vệ tổ quốc, hiện thực hóa lí tưởng hòa bình.

4. “Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo” _ Câu thơ thể hiện được điều kiện chiến đấu đầy khắc nghiệt, nơi rừng núi hoang vu hiểm trở, những trận sương muối lạnh buốt người. Trong không gian, điều kiện khó khăn ấy, những người lính vẫn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. _Tình đồng chí, đồng đội thật đẹp, những khó khăn không làm những người lính nản chí, họ cùng nhau chiến đấu. _ Hình ảnh vầng trăng treo trên ngọn súng gợi ra ánh sáng của hòa bình, của tự do.

5. Tác giả đặt tên bài thơ là “Đồng chí” bởi:

+ Đây chính là nội dung chủ đạo của bài thơ, nói về tình đồng đội, đồng chí của những người lính trong chiến tranh. + Lí giải cơ sở sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đó chính là sức mạnh của tình đoàn kết, gắn bó giữa con người với con người.

6. Hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp hiện lên thật đẹp. Đó là những con người sẵn sàng xả thân vì quê hương, vì độc lập tự do của Tổ quốc, họ sẵn sàng dâng hiến cả tuổi xan cho sông núi quê hương. Đẹp hơn nữa chính là thế giới tâm hồn, là tình cảm gắn bó của những người lính, trong không gian đầy khắc nghiệt, thiếu thốn họ luôn có ý thức gắn bó, sống đùm bọc, tương trợ nhau không chỉ trong cuộc sống mà cả trong chiến đấu.