Top 13 # Soạn Bài Ánh Trăng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Maiphuongus.net

Soạn Bài Lớp 9: Ánh Trăng

Soạn bài lớp 9: Ánh trăng

Soạn bài: Ánh trăng

Nguyễn Duy

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Ánh trăng của Nguyễn Duy mang sức sáng nối liền quá khứ – hiện tại, là tấm gương trăng để soi lòng. Con người của gốc lúa bờ tre, của nắng nỏ trời xanh, của lời ru trọn kiếp người không đi hết, của “Nước chè tươi rót vàng mơ” ấy thường hay giật mình giữa chốn đô hội ồn ào:

tôi giật mình cái âm thanh của rừng lạc về thành phố Chợt hiện về thăm thẳm núi non kia” (Nghe tắc kè kêu trong thành phố)

2. Những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành nguồn mạch hồi ức thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Cho nên chỉ một tiếng tắc kè kêu cũng đủ khơi cho nguồn mạch ấy dào dạt chảy. Thì ra, người vốn thiết tha với đồng quê bình dị, say sưa với ca dao hò vè cũng là người ân tình với quá khứ gian lao, nặng lòng với núi rừng một thủa. Với Ánh trăng, Nguyễn Duy lại thêm một cái “giật mình”.

Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.

Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Trăng hiện diện trong quá khứ, đột ngột sáng trong hiện tại và mặc nhiên vằng vặc trong suy ngẫm nhân tình.

Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức:

Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa

Con người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ chung. Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:

Từ hồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với đồng, với sông, với bể, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.

Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:

3. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỉ, nghĩa tình. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:

Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng

Đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Sự đồng hiện thời gian – không gian/trăng – người được thể hiện bằng ngôn ngữ lập thể. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa,…

4. Từ khổ thơ đầu là vầng trăng (4 lần) đến khổ thơ cuối bài là ánh trăng. Ánh trăng bất chợt soi chiếu, thản nhiên và độ lượng, sự im lặng của ánh trăng là sự im lặng của chân lí. Bình dị, mộc mạc nhưng đủ khiến “ta giật mình”. Cái chân lí giản đơn đã thành đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn”.

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

1. Hình ảnh thơ trong bài có tính biểu tượng. Hiểu được ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng, mới hiểu được cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao, tình nghĩa của tác giả và từ đó rút ra bài học về cách sống cho bản thân.

2. Khi đọc, cần chú ý sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bố cục, giữa ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của hình tượng thể hiện trong bài thơ.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Ánh Trăng Siêu Ngắn

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Câu 1 Trả lời câu 1 (trang 157 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Bố cục (3 phần)

+ Phần 1 ( hai khổ thơ đầu): Cảm nghĩ về vầng trăng trong quá khứ.

+ Phần 2 (hai khổ tiếp): Cảm nghĩ về vầng trăng trong hiện tại.

+ Phần 3 (hai khổ cuối): Suy ngẫm của tác giả về trăng.

– Nhận xét: bố cục bài thơ diễn ra theo trình tự thời gian, sự việc nào diễn ra trước kể trước, sự việc nào diễn ra sau kể sau.

– Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa:

+ Vầng trăng của thiên nhiên.

+ Biểu tượng cho quá khứ đẹp đẽ.

Câu 3 Trả lời câu 3 (trang 157 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

+ Trăng là biểu tượng cho tình nghĩa, cho tình cảm gắn bó.

– Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng vầng trăng nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, nguyên vẹn và bất diệt. Ánh trăng như muốn nhắc nhở con người về quá khứ thiêng liêng, về sự bội bạc.

– Hai khổ thơ đầu: hình ảnh vầng trăng trong quá khứ.

Câu 4 Trả lời câu 4 (trang 157 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

– Hai khổ thơ sau: suy ngẫm của tác giả như một sự hối hận, tự vấn.

– Giọng điệu tâm tình, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư.

ND chính

– Bài thơ được viết năm 1978, sau hòa bình ba năm.

chúng tôi

– Chủ đề: bài thơ không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà có ý nghĩa đối với cả một thế hệ bởi vì nó đặt ra vấn đề về thái độ với quá khứ, với người đã khuất, với cả chính mình.

Với tôi trăng như người bạn tri kỉ cùng tôi đi qua những năm tháng cuả tuổi thơ. Ngày ấy, tôi và trăng rất gần gũi, hồn nhiên, vô tư với nhau. Khi lớn lên, tôi tham gia chiến tranh, trăng cũng theo tôi vào ở rừng. Trong những ngày tháng gian lao ấy, trăng đã trở thành người bạn đồng hành cùng tôi qua những thăng trầm cuộc đời. Rồi hòa bình lập lại, tôi trở về thành phố với cuộc sống hiện đại, tiên nghi. Đắm chìm trong cuộc sống ấy, tôi vô tình đã lãng quên vầng trăng và quên đi cả lời hứa năm xưa của mình. Tôi đã quay lưng lại với vầng trăng, quay lưng lại với quá khứ, với thiên nhiên và chính mình. Trong một lần mất điện, tôi đã gặp lại vầng trăng. Trăng vẫn thế, vẫn tròn đầy, thủy chung và không trách cứ tôi nhưng tôi thấy thật ăn năn và hối hận vì sự vô tâm, bạc bẽo của mình.

Bài thơ là sự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước rất bình dị, hiền hậu. Qua đó nhắc nhở người đọc phải có một thái độ sống ” Uống nước nhớ nguồn”, thủy chung ân tình với quá khứ, nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết thức tỉnh lương.

Soạn Bài: Ánh Trăng (Ngắn Nhất)

– Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở làng Quảng Xá, nay thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa.

– Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam.

2. Sự nghiệp văn học

– Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa.

Khái quát tác phẩm Ánh trăng

– Phần 1: 2 khổ đầu: Hình ảnh ánh trăng gắn bó với tuổi thơ, với những năm tháng gian khổ.

– Phần 2: 2 khổ tiếp theo: sự xa lạ giữa người và trăng khi tác giả sống ở thành phố

– Phần 3: 2 khổ cuối: Những cảm xúc của tác giả khi bắt gặp lại trăng và cùng những suy ngẫm của tác giả

Soạn bài: Ánh trăng (ngắn nhất)

Câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1)

Nhận xét

Bố cục của bài thơ được sắp xếp theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại, từng khổ thơ ghi lại dòng thời gian chuyển tiếp từ quá khứ đến hiện tại cuộc sống của tác giả ở thành phố.

Nhận thấy, khổ thơ làm nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc là khổ thơ thứ. Đó khi đối mặt trực tiếp với ánh trăng, ngẩng mặt nhìn lên thấy bao nhiêu là hình ảnh đã từng rất gắn bó với tác giả hiện ra.

Câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1)

Vầng trăng có nhiều tầng ý nghĩa

– Vầng trăng: vầng trăng của thiên nhiên, vũ trụ

– Vầng trăng: là người bạn tri kỷ của con người

– Vầng trăng: soi chiếu, chứng minh tình cảm trong sáng của con người

Chiều sâu tư tưởng của bài thơ được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ cuối. Hình ảnh ánh trăng cứ soi sáng, tròn vành vạnh bao lâu nay, sống, con người lại vô tình đánh mất những giá trị xưa cũ mà thay đổi theo bước đi của thời gian, của cuộc sống. Vì những sự đổi thay và tác động của nhiều yếu tố, mà con người dường như quên mất đi hình ảnh ánh trăng bao lâu nay vẫn như thế. Câu thơ, “đủ cho ta giật mình”, đó là sự nhìn lại của tác giả, như một lời gợi nhắc, ánh trăng gợi ra những liên tưởng và nhắc nhở tác giả về tình nghĩa, về quá khứ đẹp mà tác giả dường như lãng quên. Không chỉ riêng tác giả, mà hình ảnh ánh trăng mang ý nghĩa sâu sắc tình nghĩa con người, nhắc nhở con người đừng bao giờ quên đi những gì mình đã từng có về quá quá khứ tốt đẹp.

Câu 3 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1)

Bài thơ triển khai theo trình tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại. Ánh trăng và tác giả cùng xuất hiện trong thời gian quá khứ, và đến hiện tại, sự vật, sự việc nhiều thay đổi, nhưng chỉ con người thay đổi, còn Ánh trăng vẫn giữ trọn hình ảnh soi sáng, tròn vành vạnh như ngày nào

Âm hưởng bài thơ biến đổi linh hoạt theo cảm xúc, trạng thái của tác giả, khi nhẹ nhàng, khi trầm tư, khi lại thức tỉnh tác giả.

Câu 4 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1)

Bài thơ được viết vào năm 1975, tức là sau cuộc kháng chiến chống Mĩ, đất nước ta giành được hòa bình. Bấy giờ, những người chiến sĩ cách mạng nơi rừng núi trở về thành phố. Thành phố, một nơi đầy đủ tiện nghi, đèn điện, con người dường như lãng quên đi những ngày tháng tối tăm gian khó khi chiến đấu ở rừng.

Bài thơ là lời nhắc nhở, gửi gắm sâu sắc đến tất cả mọi người, đó là không bao giờ được lãng quên đi những ngày tháng vất vả gian lao để chúng ta có được ngày hôm nay. Hơn thế nữa, phải biết nhớ ơn những người đi trước, đã chiến đấu, hi sinh để cho chúng ta một cuộc sống hòa bình, tự do, đây cũng chính là biểu hiện của đạo lí sống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta

Một thời gian khổ, vất vả trong những ngày tháng chiến đấu, ánh tráng là người bạn gắn bó, là người bạn tri kỷ tâm tình của tôi. Nhưng, kể từ ngày hòa bình đất nước, tôi trở về với phố thị đông vui, với ánh đèn điện khắp ngõ phố, dường như hình ảnh ánh trăng trở nên xa lạ với tôi. Trăng vẫn thế, vẫn ngang qua ngõ mỗi tối, vẫn soi sáng mọi nẻo đường, vẫn tròn vành vạnh và trong sáng,… Hóa ra, tôi đã quá vô tình, cuộc sống nơi thành thị đã thay đổi con người, tôi đã lãng quên đi những ngày đầu gắn bó với trăng, với rừng với núi, với những năm tháng vất vả có nhau của tôi và trăng. Ngẩng mặt nhìn trăng, tôi bỗng giật mình, tôi nhìn thấy quá khứ hiện gần, nhìn thấy tuổi thơ gần gũi, và thấy mình thật vô tình với trăng.

Kiến thức mở rộng bài Ánh Trăng

1. Vầng trăng trong quá khứ

– “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,”vầng trăng thành tri kỉ” – trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ.

2. Vầng trăng trong hiện tại

– Hoàn cảnh sống: đất nước hòa bình.

– “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:

+ Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.

– Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:

+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng

– Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.

– Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

– Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

– Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

4. Giá trị nội dung

– Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.

– Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

5. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình.

– Giọng thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc.

– Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa.

Soạn Bài Thơ Ánh Trăng Ngắn Nhất

– Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở thành phố Thanh Hóa. – 1966, ông gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường. – Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. – Nguyễn Duy thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu. – Thơ ông gần gũi với văn hóa dân gian, nhưng sâu sắc mà rất đỗi tài hoa, đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam.

” Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, thắm thiết cái hồn cái vía của ca dao, dân ca Việt Nam. Những bài thơ của ông không cố gắng tìm kiếm những hình thức mới mà đi sâu vào cái nghĩa cái tình muôn đời của con người Việt Nam. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi hơi “bụi”, phù hợp với ngôn ngữ thường nhật”. (Theo “Văn lớp 9 không khó như bạn nghĩ”).

– Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. – Tác phẩm tiêu biểu: Cát trắng (1973), Mẹ và em (1987), Đường xa (1990), Về (1994)…

2. Tác phẩm:

– Nguyễn Duy viết bài thơ “Ánh trăng” vào năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh – nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh trở về đã để lại sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình. – In trong tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy – tập thơ đạt giải A của Hội nhà Văn Việt Nam năm 1984.

– Hai khổ đầu: Vầng trăng trong quá khứ. – Hai khổ tiếp: Vầng trăng trong hiện tại. – Hai khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng.

c. Mạch cảm xúc:

Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ.

d. Chủ đề:

Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa.

– Hoàn cảnh sống:

+ Đất nước hòa bình. + Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” – cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.

– “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:

– Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:

– Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.

– Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”, cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

– Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng – biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.

– Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

1. Nội dung:

– Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. – Gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình. – Giọng thơ mang tính tự bạch, chân thành sâu sắc. – Hình ảnh vầng trăng – “ánh trăng” mang nhiều tầng ý nghĩa