Để việc giảng dạy thế võ đạt được mục đích và phát huy được tác dụng, người Võ sư, Huấn luyện viên cần thực hiện những yêu cầu sau đây :
1/ Giới thiệu, nói tên thế võ, đòn mới :
– Trước tiên, phải nói tên thế võ hoặc giới thiệu, định nghĩa thế võ hoặc đòn mới sắp sửa dạy như : Khóa gở là gì ? Đòn chiến lược là gì, học đòn chiến lược để làm gì ? các thế phản đòn tay, đòn chân, đòn chq6n tấn công … học để làm gì, mục đích tác dụng ?
– Biểu diễn hoặc trình bày đầy đủ cho võ sinh xem thế võ hoặc đòn mới đó để có khái niệm bao quát về thế võ đó.
2/ Giải thích thế võ gồm có mấy động tác :
– Việc nầy tiến hành từng bước :
+ Giới thiệu toàn bộ động tác : + Yêu cầu làm động tác (mục tiêu đánh vào đâu, té ngã như thế nào?) + Cách thức tập luyện, thực hiện động tác
Sau đó, nhấn mạnh phần cơ bản và chủ yếu quyết định đến kết quả động tác.
– Khi giảng dạy cần chú trọng đến :
+ Vị trí của chân đứng, thế tấn + Sự vận động của cánh tay, chân + Sự chuyển động của cổ tay, bàn tay, chân trụ, hướng mắt nhìn. + Hướng dẫn cách té ngã, chống đở an toàn đối với người chịu đòn.
– Cần chú ý, khi giải thích phải :
+ Rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, nổi bật được những điểm cần phải chú ý, yếu lĩnh kỹ thuật.
+ Tránh giải thích dài dòng làm cho võ sinh phải ngồi lâu để nghe. Để cho võ sinh ở trạng thái tỉnh trong giờ tập võ là điểm tối kỵ cần phải tránh ( Nếu ngồi quá lâu có khi phải khởi động lại )
+ Lời nói cần dễ hiểu, gần gũi với trình độ của người tập, nhất là khi dùng danh từ chuyên môn – Làm mẫu động tác :
+ Huấn luyện viên làm mẫu động tác phải chính xác, rõ ràng, đẹp mắt, đúng yếu lĩnh và kỹ thuật nhằm gây cho võ sinh hứng thú luyện tập, ấn tượng sâu sắc vào ký ức để võ sinh dễ tiếp thu và làm theo.
+ Có 2 cách làm mẫu động tác
– Làm mẫu toàn bộ động tác – Làm mẫu từng phần, từng cử động, sau đó kết hợp lại làm toàn bộ 1 lần và giải thích
Vừa làm mẫu, vừa dẫn giải là 1 biện pháp có hiệu quả cao trong giảng dạy động tác.
Người làm mẫu có 2 vị trí đứng để thị phạm:
+ Đối diện + Cùng chiều
Đối diện tức là Huấn luyện viên quay mặt về phía người tập để hướng dẫn. Cách nầy thuận tiện cho HLV dễ quan sát và điều khiển võ sinh.
Đối với những động tác phức tạp thì nên làm mẫu hướng dẫn cùng chiều, nghĩa là quay lưng về võ sinh.
Tập đến đâu, ôn tập đến đó (Hướng dẫn động tác thứ nhất, võ sinh đã thuộc thì tiến hành hướng dẫn động tác thứ hai, sau khi võ sinh đã thuộc động tác thứ hai thì trở lại ôn 2 động tác ), cứ như thế tiến hành hướng dẫn cả bài.
3/ Điều khiển võ sinh tập theo khẩu lệnh :
Sau khi Huấn luyện viên làm mẫu động tác và giải thích xong, cho võ sinh luyện tập theo nguyên tắc từ nhẹ đến nặng, từ chậm đến nhanh, vào đòn chính xác vài lần mới cho té ngã.
Đối với những động tác khó, phức tạp thì nên cho võ sinh tập đi tập lại nhiều lần.
Hô khẩu lệnh phải mạnh, rõ ràng, dứt khoát .
Đối với động tác nào còn yếu, Huấn luyện viên làm mẫu lại để võ sinh quan sát và hướng dẫn cách khắc phục sửa chữa những cử động còn sai..
4/ Kiểm tra và sửa chữa động tác sai:
Trong quá trình giảng dạy và tập luyện thường xảy ra những thiếu sót, làm động tác sai. Việc sửa chữa phải tiến hành từng bước, có trọng điểm.
Điều trước tiên cần phải biết nguyên nhân của thiếu sót đó:
– Do phương pháp huấn luyện. – Do trình độ người tập. – Do động tác phức tạp ….
Sau khi tìm ra được nguyên nhân, Huấn luyện viên phải sửa chữa ngay.
– Muốn tránh thiếu sót sai lầm thì phải :
+ Đảm bảo giảng dạy đúng chương trình, yếu lĩnh + Tiến hành từng bước + Từng bộ phận bài tập + Ôn tập và củng cố dần dần.
– Biện pháp sửa chữa thiếu sót:
Huấn luyện viên lần lượt đi đến từng nhóm, từng người uốn nắn động tác làm sai.
Có thể sửa chữa bằng lời, nói rõ những chỗ tập sai, có thể trực tiếp uốn nắn từng võ sinh. Khi nào nhận thấy có 1 sai lầm chung, Huấn luyện viên chọn 1 em nào sai nhiều nhất, vừa sửa chữa vừa giải thích cho toàn thể lớp.
Phương pháp tiến hành sửa chữa động tác có thể áp dụng sửa chữa tập thể hay sửa chữa cá nhân. Có như thế mới đảm bảo thời gian, chất lượng động tác và không ảnh hưởng đến thời gian tập của mọi người
+ Giải thích, chỉ dẫn lại yêu cầu và cách làm động tác + Làm mẫu lại động tác + Yêu cầu tập lại động tác chính xác : Làm từ từ, từng bộ phận động tác rồi đến toàn bộ + Ôn tập nhiều lần.
– Kiểm tra:
Tùy mức độ tiếp thu của võ sinh, Huấn luyện viên có thể áp dụng phương pháp kiểm tra chất lượng động tác bằng cách gọi 1 số võ sinh ra lần lượt biểu diễn 1 số động tác. Sau đó phân tích chỗ đúng, chỗ sai để đánh gía việc thực hiện động tác.
PHƯƠNG PHÁP HUẤN LUYỆN ÐÒN CHIẾN LƯỢC
ÐÒN CHIẾN LƯỢC LÀ GÌ?
Ðòn chiến lược là tên của một chuỗi động tác được sắp xếp hợp lý để trở thành một kế hoạch tấn công. Mỗi đòn mang một sắc thái riêng nên được đánh số từ 1 đến 30 để phân biệt và dễ nhớ.
PHÂN NHÓM:
Trong hệ thống huấn luyện đòn chiến lược của Vovinam Việt Võ Ðạo được chia làm 3 nhóm:
– Nhóm 1: Từ đòn số 1 đến số 10: Ít động tác, đơn giản, thực dụng – Nhóm 2: Từ đòn số 11 đến số 20: Luyện tay và chân của 2 phía phải, trái linh hoạt như nhau, chứ trọng nhiều đến các kiểu xoay người đánh láy. – Nhóm 3: Từ đòn số 21 đến số 30: Tấn công ồ ạt bằng chuỗi động tác thật dài.
TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG:
Trong thực tế lâm trận tùy theo tư thế của đối phương có 2 trường hợp để áp dụng:
Trường hợp ta chủ động đánh trước: Những đòn chiến lược có thể đánh nhử, dụ đối phương chú ý về một phía, tạo sơ hở để ta đánh tiếp những thế có tính cách quyết định. Thí dụ: Chiến lược số 1,2,3,5,8,11,12. Trường hợp đối phương chủ động đánh trước: Ta áp dụng những đòn chiến lược có thể đánh đầu tiên mang tính chất cản phá và những thế tiếp theo mang tính chất quyết định như: Chiến lược 4, 6, 7, 16, 19, 20.
Trong trường hợp này đối phương bị quán tính tràn tới nên lở bộ, không thể nhanh chóng thối lui hoặc đổi hướng để tránh đòn nên dễ bị ta đánh trúng.
YÊU CẦU HUẤN LUYỆN:
Từ bước đầu tiên học thuộc một đòn chiến lược cho đến bước cuối cùng – áp dụng thành công – Người tập phải được hướng dẫn qua nhiều bước trung gian, mà mỗi huấn luỵện viên chính là một bài tập mang sắc thái tìm hiểu, sinh động, hứng thú, làm tăng dần khả năng nhanh nhẹn, tốc độ phát đòn, đạt hiệu qủa cao trong lúc thi triển. Mặt khác vì đây là hình thức đối luyện nên cả 2 phía đều đạt những thành tựu. Phía tấn công sẽ đạt được khả năng đánh giỏi, phía chịu đòn sẽ đạt được khả năng thủ kín.
BẢY BƯỚC THỰC HIỆN:
1- THUỘC ÐÒN:
Sau khi thi hành động tác, cho võ sinh đánh đồng loạt, chậm theo lời hô, khi võ sinh tương đối thuần thục tay chân, ta cho tăng dần nhiều động tác thực hiện trong một lời hô. Thí dụ: Tập chiến lược số 1 1- Hô tiếng thứ nhất: Chém trái số 1 2- Hô tiếng thứ hai: Ðấm thấp phải 3- Hô tiếng thứ ba: Bước chân đánh chỏ Sau khi tương đối thuần thục 1- Hô tiếng thứ nhất: chém trái, đấm thấp phải 2- Hô tiếng thứ hai: bước lên đánh chỏ Và cuối cùng của bước một Mỗi lần hô: đánh trọn đòn(Cho đội hình đổi hướng về phía sau; khi đã đánh dứt một đòn)
2- XÁC ÐỊNH VỊ TRÍ:
Trong bước này lúc thi hành động tác, HLV nên thực hiện có đối tượng (phụ tá hoặc một võ sinh nào đó), đòn phát chậm vào đúng vị trí qui định.
Thí dụ: Chiến lược số 1 Chém đúng vào ngang tầm mặt đối phương Rùn tấn đấm vào sườn Chồm lên đánh chỏ vào thái dương. Sau đó cho võ sinh xoay đôi vào nhau Thế thủ – Mỗi bên được thực hiện một lần, chậm, theo lời hô từng động tác, phía chịu đòn không phản ứng gì cả. Lần lượt đổi bên cho đến khi thuần thục.
3- PHỐI HỢP VỚI PHÒNG VỆ
Ðể tránh va chạm gây nguy hiểm trong lúc tập ta cho võ sinh áp dụng kỹ thuật che chắn, phòng vệ bằng cách giữ 2 tay song song che ngực (không được đặt tréo), tùy theo tầm đánh của đối phương mà di chuyển hai tay lên, xuống, sang phải, sang trái. Ở bước luyện tập này võ sinh được tạo một thói quen bình tĩnh phòng vệ, hai tay thu về che chở những nơi hiểu yếu, không nên đưa tay qúa cao khi che mặt vì thế sẽ hở ngực, mức cao nhất của hai nắm tay chỉ ngang tới trán. Cho võ sinh xoay đôi vào nhau – Thế thủ Phía tấn công đánh từng động tác theo lời hô, chậm. Phía chiu đòn áp dụng kỹ thuật phòng vệ che kín chỗ đối phương muốn đánh
Lưu ý: không nên đưa tay ra xa ngoài để chặn đòn, dễ bị sơ hở.
Sau khi đã thuần thục ta hô nhanh dần và cuối cùng chỉ một lời hô võ sinh phải thực hiện nhanh trọn đòn chiến lược.
4- KHAI THÁC TRIỆT ÐỂ:
Phải hướng dẫn cho võ sinh nắm vững cách phát đòn hư, thế nhử ra sao để tạo được chỗ sơ hở trên người đối phương như ý muốn.
Thế hư phải đánh như thật có nghĩa là cũng nhanh, mạnh, hùng hổ, dữ dằn nhưng không cần trúng vì đối phương sẽ dễ dàng tránh đỡ. Tiềm lực ta dồn vào thế thật, công đúng vào chỗ đối phương vừa hở trong lúc đỡ đòn hư, để quyết định vấn đề.
Ở bước này vế tấn công phải tìm cách đánh trúng bằng sự dụ địch thông minh, bằng những động tác cực kỳ nhanh nhẹn, võ sinh phải khai thác triệt để sự lợi hại của đòn thế cộng với sự khéo léo của bản thân để đạt được kết qủa mong muốn là đánh trúng đích.
Ðương nhiên là rất khó nhọc thực hiện vì phía chịu đòn đã biết trước và quen với lối phòng vệ ở bước thứ ba. Vẫn tập theo lời hô, qui ước Một: A đánh; Hai B đánh. để tạo phản ứng linh hoạt, nên cho võ sinh đổi cặp trong bước luyện tập này.
5- BÁM SÁT ÐỐI PHƯƠNG:
Ðặt thêm một vấn đề nữa: Phía chịu đòn không những chỉ che chắn mà còn tránh né đổi hướng hoặc thối lui buộc phía tấn công phải luôn bám sát đối phương để đạt được mục đích cuối cùng: đánh trúng (hẳn nhiên là phải dùng đúng đòn chiến lược mà HLV đang cho tập). Thông thường khi đã tập thành công bước thứ năm, võ sinh đã có khả năng sử dụng được đòn chiến lược trong giao đấu một cách vững vàng và hiệu quả. Và phía chịu đòn cũng được quen dần với sự né tránh, phòng thủ.
Lưu Ý: Hãy để phía chịu đòn tự né tránh theo ý họ. Ở bước này vẫn cho võ sinh tập với chế độ qui ước: MỘT: A đánh; HAI: B đánh.
6- LIÊN TỤC ÐƠN ÐIỆU:
Một đòn chiến lược ta có thể phát ra liên tục nhiều lần trong một đợt tấn công, phát đòn lần thứ nhất nếu không đạt kết quả, ta tiếp tục phát lần thứ hai, thứ ba,… cho đến khi đánh trúng hoặc dồn đối phương vào chỗ cụt, phía chịu đòn có thể tránh hoặc thối lui cho đến khi phía tấn công bị chững lại, lập tức phản công trở lại bằng đòn chiến lược theo qui ước.
Ở bước này HLV hô tên đòn chiến lược không theo tứ tự và để cho võ sinh tập tự do. Phía nào nhạy bén nhớ đòn thì sẽ phát trước và nếu đánh liên tục áp đảo được đối phương khiến bên kia không thể nào phản công lại được thì sẽ thắng.
7- LIÊN TỤC ÐA DẠNG:
HLV không cần phải hô tên đòn mà hãy để võ sinh tự chọn và trong bước này sự tấn công liên tục phải là tổ hợp của nhiều đòn chiến lược khác nhau, mục đích phát huy sự sáng tạo của võ sinh người Thầy chỉ gợi ý mẫu và khuyến khích mọi người làm theo bằng sự lựa chọn riêng.
Một đòn chiến lược lần lượt được tập dợt qua bảy bước, từ bước một: Thuộc đòn, có tính lý thuyết, chuyển dần đến bước thứ bảy là bước thành công, người tập sẽ thuộc đòn bằng một tâm trạng hứng thú, quen dần với kỹ thuật giao đấu Việt Võ Ðạo. Vả lại bài tập chuyển từ dễ đến khó và tạo điều kiện gần giống giao đấu thực tế nên người tập thực hiện dễ dàng và tích lũy nhiều kinh nghiệm lâm chiến.
PHƯƠNG PHÁP HUẤN LUYỆN MỘT BÀI QUYỀN
Trong môn phái Vovinam Việt Võ Đạo, hầu hết các bài quyền tay không và vũ khí đều theo nguyên tắc chung “Một phát triển thành ba” (Học các đòn căn bản lẽ, được ghép lại thành bài quyền, sau đó phối hợp lại thành bài đối luyện, song luyện, song đấu) nhằm giúp cho người môn sinh có nhiều hình thức ôn tập thuần thục và dễ nhớ, phát triển các kỷ năng nhanh, mạnh, bền, khéo léo đồng thời tạo sự gắn bó, xuyên suốt, có tính logic, khoa học trong tập luyện và giảng dạy. Hiện nay, ngoài việc tập luyện các bài đơn luyện để tăng cường thể lực, nâng cao sức khỏe, thi lên cấp đai theo chương trình, các bài quyền còn được đưa vào thi đấu, tranh giải tại các địa phương; do đó việc tập luyện và huấn luyện các bài quyền (đơn luyện) đều phải đạt được mục đích, tiêu chuẩn chung như: phải thuộc đòn cơ bản, nắm vững động tác lẻ rồi mới ghép vào bài. Thực hiện bài tập đúng trình tự, chính xác từng động tác, dứt khoát trước khi bắt đầu động tác kế tiếp. Trước khi huấn luyện bài quyền cần giới thiệu qua : – Tên gọi bài quyền, xuất xứ, ý nghĩa, nội dung chính trong bài quyền (ghép các thế chiến lược, các động tác lẻ, đòn cơ bản của từng trình độ trong chương trình). – Số động tác của toàn bài, đồ hình, phương hướng và 1 số đặc điểm chung trong bài quyền. – Yêu cầu phải đạt: Đánh nhanh, mạnh, dứt khoát, chính xác từng động tác, thời gian thực hiện, khả năng chịu đựng, giữ thăng bằng, tấn bộ pháp vững chắc, thân thái tốt (biểu hiện nét mặt, nhãn thần).
Phương pháp huấn luyện : – Huấn luyện các thế tấn: – Các thế tấn có trong bài quyền đều phải được tập trước. cần chú ý làm cho võ sinh nắm vững vị trí bàn chân, vị trí đùi, tư thế của thân. – Huấn luyện cách chuyển tấn: Chú ý nắm vững sự vận động của chân khi chuyển tấn, chân chuyển luôn luôn phải trở về chân trụ . Hướng dẫn cụ thể, rành mạch cách chuyển tấn. – Huấn luyện cách đá: Gồm các loại đá, đạp. Hướng dẫn võ sinh hiểu rõ cách lấy sức bật ở hông, ở đầu gối, cách lầy đà, đá ra và rút chân về. – Huấn luyện vị trí vận động của 2 cánh tay : Chú ý đến tác dụng: Che thân, che mặt, đầu, biên độ rộng thì hở sườn, hở bụng, hạ bộ, mặt. Chú ý cách vận động cổ tay, bàn tay. – Huấn luyện cách phối hợp giữa thế tấn, tay, chân, hướng mặt, mắt nhìn : Trong từng động tác, làm thế nào cho có sự phối hợp nhịp nhàng, cân đối trong từng động tác. Trong giai đoạn chuyển thế, Huấn luyện viên phải coi trọng tính chính xác của động tác, thế võ, sự phối hợp, cùng lúc giữa cử động chân tay với đầu, mắt và hơi thở. Khi thực hiện một bài quyền, ta phải quy định hướng làm chuẫn. Ví dụ: trước mặt là hướng A, sau lưng là hướng B, bên trái là hướng C và bên phải là hướng D. Như vậy không bị ảnh hưởng khi phải thay đổi môi trường thực hiện. Không nên theo quan niệm quy định hướng kiểu Đông, Tây, Nam, Bắc.
Trong quá trình thực hiện quyền có những bước chéo góc thì gọi kết hợp, ví dụ như trong đoạn về của bài quyền Thập Tự thì gọi là Tam giác tấn trái hướng AC, Tam giác tấn phải hướng AB chẳng hạn. Như vậy không chỉ riêng bản thân mình, mà nếu ghi chép thì người khác đọc cũng sẽ dễ dàng nhận ra.