Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Ngữ Văn 9 Tập 1 mới nhất trên website Maiphuongus.net. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu nhà thơ Phạm Tiến Duật trong SGK Ngữ văn 9 Tập 1).
2. Tác phẩm
* Xuất xứ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa của tác giả.
* Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ 8 chữ.
* Bố cục: Văn bản có thể chia làm 2 phần:
Phần 1: 2 khổ thơ đầu: Hình ảnh chiếc xe không kính.
Phần 2: còn lại: Hình ảnh người lính lái xe.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Nhan đề bài thơ có điều khác lạ: nhan đề quá dài tạo nên sự độc đáo. Nhan đề này vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàn của người lính lái xe.
* Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Đây là một hình ảnh độc đáo vì nó là chứng tích của chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh. Qua đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn, gian khổ.
Câu 2:
Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Phân tích hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ:
Tư thế hiên ngang, sảng khoái, ung dung: “Ung dung buồng lái ta ngồi”, họ đường hoàng ngồi vào buồng lái, điều khiển chiếc xe chạy giữa chiến trường mưa bom bão đạn.
Tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, họ mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, bão đạn, vẫn ung dung cho xe chạy.
Niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình đồng đội: “Nhìn nhau mặt lấm cười haha”, “Chưa cần thay lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”, họ gặp nhau, bắt tay nhau qua cửa kính, chia sẻ với nhau những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy.
Ý chí chiến đấu vì miền Nam: họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hệ trẻ miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 3:
* Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, pha chút ngang tàn, nghịch ngợm rất phù hợp với những chàng trai trong chiếc xe không kính. Điều này góp phần thể hiện hình ảnh những người lính dũng cảm, ung dung, hóm hỉnh mà vẫn không kém phần trẻ trung.
* Những yếu tố trên đã góp phần làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên, thú vị và đặc biệt là rất thơ.
Câu 4:
* Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ:
Qua bài thơ, em cảm thấy khâm phục những người lính bộ đội cụ Hồ, khâm phục thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ bởi sự gan dạ, bất chấp khó khăn, nguy hiểm. Mặc dù luôn làm việc trong môi trường đầy rẫy những hiểm nguy, bom đạn, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào nhưng họ vẫn luôn tươi vui, yêu đời, trẻ trung và tràn đầy nhiệt huyết.
* So với hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc. Họ vẫn luôn thắm tình đồng chí, đồng đội, chỉ có điều, ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính, người lính trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.
Soạn Văn chúc các em học tập thật tốt!
4.9
/
5
(
7
bình chọn
)
Soạn Văn 9: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn Văn: Bài thơ về tiểu đội xe không kính Bố cục:
– Phần 1: Hình ảnh chiếc xe không kính.
– Phần 2: Hình ảnh người lính lái xe.
Đọc hiểu văn bản Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Nhan đề bài thơ quá dài, vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàng của người lái xe.
– Chiếc xe không kính là một hình ảnh độc đáo, đó là chứng tích chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng qua đó mà nhìn thấy những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn gian khổ.
Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
– Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi … ùa vào buồng lái.
– Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi…ừ thì ướt áo… mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
– Tình đồng đội thắm thiết: Bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
– Ý chí chiến đấu vì miền Nam: Một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.
Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, đầy tính ngang tàng pha chút nghịch ngợm. Điều đó góp phần thể hiện hình ảnh người lính ung dung, hóm hỉnh, trẻ trung.
Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
– Hình ảnh người lính cho ta thấy sự gan dạ, bất chấp khó khăn, luôn tiến lên phía trước vì lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Họ cũng là những người thật hóm hỉnh, trẻ trung và yêu đời.
– So với người lính trong bài Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc với tình đồng đội thắm thiết. Chỉ có điều, người lính ở bài này trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.
Luyện tập
(trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những cảm giác, ấn tượng …
Phân tích khổ thơ thứ hai:
Khổ thơ thứ hai tràn ngập những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim. Đó là những khó khăn phía trước, nhưng mọi thứ đều thật nhỏ bé trước lòng quyết tâm không lùi của những chiến sĩ trẻ. Lại thêm hình ảnh lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim – Như sa như ùa vào buồng lái làm cho chặng đường trở nên vui tươi, nhẹ nhàng hơn.
Soạn Bài Lớp 9: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn bài lớp 9: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Soạn bài môn Ngữ văn lớp 9 học kì I
Soạn bài: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Phạm Tiến Duật I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Bài thơ có một nhan đề rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Ngay từ đầu, nhan đề bài thơ đã dự báo một giọng điệu riêng của Phạm Tiến Duật: đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh qung: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
2. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh đoàn xe nối nhau ra trận. Vào cuộc chiến có nghĩa là mất đi rất nhiều, đến chiếc xe cũng phải mất mát, sẻ chia. Câu mở đầu bài thơ rất giản dị mà bất ngờ: Không có kính không phải vì xe không có kính
Ba chữ “không” như thể giằng nhau trong một câu thơ, dù chỉ để thông tin về một sự thật “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Có vẻ như nhà thơ đang phân bua một cách nghịch ngợm, cho sự hiện diện không trọn vẹn của chiếc xe:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước…
Nhưng không phải, bởi bù lại cái “sự thiếu hụt” đáng yêu ấy, người lính lại thoả thuê trong những cảm nhận trên đường:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa, như ùa vào buồng lái. …Gặp bạn bè suốt dọc đương đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Đọc đến đây, dường như cảm giác xe “không có kính” bị chìm đi, nhường chỗ cho những thanh âm trong trẻo bình yên ùa vào trong khoảng lặng của cuộc chiến tranh khốc liệt. Cuộc sống của người lính bỗng trở nên thật đẹp. Tâm hồn lãng mạn của họ vẫn dạt dào thăng hoa trong bộn bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch, những cánh chim vẫn bền bỉ, “đột ngột” mà không cô đơn. Từ “đột ngột” rất đắt dùng trong câu đảo thành phần này diễn tả một động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim được tính từ hoá để cuối cùng được người hoá qua hai động từ ” sa, ùa” hết sức tự nhiên. Tất cả những điều ấy đủ nói lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe, thể hiện qua khát vọng sống cao cả và kiên cường. Mặc dù “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” nhưng đây là tư thế của họ:
Ung dung buồng lái ta ngồiKhông có kính, ừ thì có bụi, Bụi phun tóc trắng như người già. Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha. Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính. Mặc kệ “gió xoa vào mắt đắng”, mặc kệ “mưa tuân ma xối” người lính vẫn nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim, thấy sao trời và đột ngột cánh chim. Một loạt hình ảnh vụt hiện tạo ra những cảm giác, ấn tượng vừa quen, vừa lạ . Đẹp và hiên ngang. Gian khổ nhường ấy, nhưng tinh thần người lính vẫn vượt lên, vẫn yêu đời:
Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Những câu thơ đặ tả thực tế, kể cả những tiếng “ừ” rất đời thường và ngang tàng chất lính ấy như thể thách thức cùng gian khó:
Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Con đường ra trận, trong thơ Phạm Tiến Duật thường có nhiều tiếng hát, từ Trường Sơn đông Trường Sơn tây đến Gửi em cô thanh niên xung phong, và trong bài thơ này, Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Đó là con đường “chạy thẳng vào tim”. Trái tim ấy là miền Nam phía trước. Trái tim mang một hàm nghĩa thiêng liêng. Ngay kể cả khái niệm “gia đình” theo cách diễn đạt của Phạm Tiến Duật thể hiện trong bài thơ cũng mang một nét nghĩa rất mới:
Mục tiêu cao cả là miền Nam phía trước, là giải phóng đất nước quê hương. Chính vì thế:
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
Trái tim ấy là trái tim người lính, là sứ mệnh vinh quang của tuổi trẻ thế hệ Hồ Chí Minh tiếp nối các thế hệ cha anh đang trên đường ra trận. Câu thơ cuối mang màu sắc triết lí – một triết lí thật đơn sơ nhưng rất đỗi chân thực và mang tầm thời đại. Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.
3. Cùng với Trường Sơn đông Trường Sơn tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Bài thơ về tiểu đội xe không kính góp phần thể hiện vị trí và khẳng định phong cách nghệ thuật của Phạm Tiến Duật trong thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật, đồng thời thể hiện nổi bật tinh thần tự tin, tươi trẻ của lớp lớp thanh niên Việt Nam trên tuyến đường Trường Sơn một thời oanh liệt. Khi đọc, cần chú ý:
Không có kính, ừ thì có bụi Không có kính, ừ thì ướt áo Không có kính, rồi xe không có đèn.
Tinh thần ung dung của người lính sẵn sàng ra trận, thể hiện trong tiết tấu các câu thơ:
Chất giọng khí khái ngang tàng, bất chấp gian khổ, thể hiện trong các cấu trúc lặp lại:
Soạn Văn Bài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Soạn văn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính
A.YÊU CẦU
HS cảm nhận được:
-Qua hình ảnh những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh, độc đáo giữa tuyến đường Trường Sơn ác liệt trong thời kì chông Mĩ cứu nước, tác giả khắc hoạ hình ảnh nhưng ngươi lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, lạc quan yêu đời.
-Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động và hiện thực cuộc sống chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khoẻ khoắn.
B.GỢl Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI, BÀI TẬP
I- Phần bài học
Câu hỏi 1. Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính. Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?
Gợi ý
Nhan đề của bài thơ có hai điểm khác lạ: ‘Tiểu đội xe không kính” và “bài thơ”. Đưa vào thơ những chiếc xe không kính là một sự khác lạ. Từ “bài thơ” có vẻ như thừa nhưng thực ra đây là một chủ định của tác giả. Tác giả muốn tạo nên sự liên kết giữa thơ và cái chẳng có gì nên thơ: xe không có kính. Chất thơ hiện lên từ những gì trần trụi, khô khan, từ hiện thực gian khổ, ác liệt của chiến trường. Hình ảnh tiểu đội xe không kính là hình ảnh độc đáo của bài thơ.
Câu hỏi 2. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh người lái xe trên tuyến đường Trương Sơn. Em hãy phân tích hình ảnh ngươi lính lái xe trong bài thơ (chú ý: tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình đồng đội, ý chí chiến đấu vì miền Nam).
Gợi ý
Hình ảnh những chiếc xe của tiểu đội hiện lên chân thật, bom đạn chiến trường làm cho kính xe bị vỡ, xe không còn đen, không còn mui, thùng xe bị xước,… Xe vào trận cùng sẻ chia với người lính những mất mát, hi sinh. Những người lính lái xe với tư thế rất đàng hoàng, hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thắng.
Họ lái xe với tinh thần dũng cảm, không ngại khó khăn, vượt qua bom rơi lửa đạn, không sự hi sinh:
-Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
-Những chiếc xe từ trong bom rơi
-Nhìn thấy gió vào xoa mắt dắng
-Bụi phun tóc trắng như người già
-Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Họ là những chàng trai trẻ tinh nghịch, lạc quan yêu đời, tình đồng chí, đồng đội thắm thiết:
-Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
-Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mật lấm cười ha ha.
-Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính võ rồi.
-Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Họ là những thanh niên tiêu biểu cho thế hộ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ cứu nước, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chi cần trong xe có một trái tim.
Câu hỏi 3. Em có nhận xét gì về ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ này? Những yếu tố đó đã góp phần như thế nào trong việc khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn?
Gợi ý
Ngôn ngữ của bài thơ giản dị, giọng điệu thơ pha chút ngang tàng, tinh nghịch của tuổi trẻ qua những khẩu ngữ như: ừ thì, chưa cần rửa, chưa cần thay, phì phèo châm điếu thuốc,… Đó là nét trẻ trung, hồn nhiên của các chiến sĩ. Giọng điệu thơ phản ánh tinh thần lạc quan yêu đời của chiến sĩ lái xe. Chính tinh thần lạc quan đó đà làm cho họ có thể ung dung, bình tĩnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ vượt qua những trận bom giật, bom rung để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ chi viện cho miền Nam.
Câu hỏi 4. Cảm nghĩ của cm về thế hệ trỏ thời kháng chiến chông Mĩ qua hình ảnh người lính trong bài thơ? So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này và ở bài Đồng chí.
Gợi ý
-Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là một thế hộ của những người anh hùng, sống có lí tưởng cao đẹp. Họ là những lớp thanh niên trẻ, khoẻ, đem tuổi thanh xuân của minh dâng hiến cho đất nước. Họ chiến đấu vơi tinh thần dùng cảm, không sợ hi sinh, lúc nào cũng phơi phới yêu đời. Dù bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng đều nêu cao tinh thần đồng đội.
-Hình ảnh người lính trong bài Đồng chí và hình ảnh người lính trong Bài thơ tiếu đội xe không kính là sự tiếp nối phẩm chất anh hùng của các thế hệ bộ đội cụ Hồ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Họ đều có chung một điều kiện sông, chiến đấu khó khăn, thiếu thốn nhưng đều có tinh thần vượt khó, không sợ hi sinh gian khổ, luôn lạc quan yêu đời, sông có lí tưởng cách mạng. Trong khó khăn gian khổ, đồng đội, đồng chí sát cánh, gắn bó bên nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
II – Phần luyện tập
Bài tập 2. Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất sinh động, cụ thể. Em hãy phân tích khổ thơ thứ hai để thấy rõ điều ấy.
Gợi ý
Khổ thơ thứ hai:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vảo tim
Thấy sao trời vù đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Khổ thơ miêu tá cụ thể, chính xác hình ảnh người lính lái xe ưên chiếc xe không có kính. Không có kính thì gió sẽ làm cho “mắt đắng”, không có kính thì con đường phía trước như “chạy thẳng vào tim”, và không có vật chắn nên sao trời, cánh chim “như sa như ùa vào buồng lái”. Đó là cảm giác thật, ấn tượng thật của người lái ngồi trên xe khi chiếc xe đang chạy với tốc độ cao. Những khó khăn, phiền toái khi chiếc xe không có kính được trình bày qua tinh thần lạc quan của người lính. Có vẻ như xe không có kính lại là một thuận lợi, một điều hay, một cơ hội dể ngươi lính khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời,…
Bạn đang xem bài viết Soạn Bài: Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Ngữ Văn 9 Tập 1 trên website Maiphuongus.net. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!