Xem Nhiều 3/2023 #️ Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt # Top 10 Trend | Maiphuongus.net

Xem Nhiều 3/2023 # Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt mới nhất trên website Maiphuongus.net. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Hướng dẫn

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt

Truyện ngắn ” Vợ nhặt ” của nhà văn Kim Lân được viết trong khoảng thời gian xảy ra nạn đói khủng khiếp (1945),ông đã lấy chất liệu của cuộc sống để tái hiện hình ảnh thê thảm của nhân dân trong cảnh bần cùng. Qua đó khắc họa rõ nét các nhân vật. Đặc biệt nhân vật bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ xuất hiện trong tác phẩm là hình ảnh một người mẹ già, nghèo với nhiều lo toan,tính toán để kiếm ăn qua ngày:Bà xuất hiện với dáng đi lọng khọng,vừa đi vừa lẩm nhẩm, tính toán. Nhưng là người mẹ nhân từ, hiền hậu.

Tràng dẫn người “vợ nhặt” về giữa ngày đói khiến cho mẹ anh ban đầu hết sức ngạc nhiên,bất ngờ: Bà lão ngạc nhiên vì có người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Bà nghĩ mãi không phải con cái Đục, tự nhiên bà thấy mắt mình hình như nhoèn đi thì phải. Bà hết ngạc nhiên thì lại băn khoăn không biết người đàn bà kia là ai? Sao lại chào mình bằng u?

Khi Tràng giải thích rõ với bà:” Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…”. Nói đến đây thì bà hiểu, bà cúi đầu nín lặng, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán,xót thương,ngậm ngùi,vừa lo lắng, xen lẫn cả mừng vui,nhưng có lẽ vui thì ít mà buồn tủi,xót xa,lo lắng thì nhiều. Bà nhìn người đàn bà một lần nữa. Bà là một người hiểu biết, có sự cảm thông,bao dung, độ lượng, bà hiểu con mình, bà hiểu hoàn cảnh của Thị. Bà biết rằng người ta có gặp bước khó khăn,đói khổ này người ta mới lấy đến con mình, rồi thằng con mình mới có vợ được. Bà mừng vui vì bổn phận bà làm mẹ đã không lo nổi cho con,nay đã có được vợ nhưng bà cũng lo lắng không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Bà tủi thân tủi phận vì người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm ra những mong sinh con đẻ cái sau này còn mình thì…

Bà không chỉ là người mẹ già, nghèo, hiểu con mà còn có tấm lòng nhân từ, cưu mang, đùm bọc, lấy niềm vui, hạnh phúc của con làm lẽ sống của mình. Bà sống vì con cái. Bà thổi lên ngọn lửa, niềm tin trong hoàn cảnh đói khát tăm tối ấy.

Bà nói với người dâu mới:” Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng “. Chỉ mấy từ giản dị: ” u cũng mừng lòng ” làm cho Thị như được an ủi, Tràng thì thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Bà còn an ủi: ” Nhà ta thì nghèo con ạ “, rồi bà đưa ra triết lý:” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời “. Điểm ấn tượng của người mẹ già này đối với người đọc là bà đã tạo ra một không khí vui vẻ cho gia đình. Bà thổi lên ngọn lửa ấm áp trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối. Người ta thường nói: ” trẻ tương lai – già hoài niệm ” ” người mẹ già gần đất xa trời này khi có nàng dâu mới lại toàn nói chuyện vui vẻ, bàn tính chuyện làm ăn ngày mai: sửa nhà, nuôi gà,… Bà tạo ra một không khí vui vẻ như muốn làm át đi không khí thê thảm của nạn đói khủng khiếp; những tiếng khóc hờ hững của những gia đình có người chết. Bà tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để con cái vượt qua nạn đó, hướng đến một ngày mai tươi đẹp. Đặc biệt là bữa cơm mời nàng dâu mới, thật đạm bạc chỉ có một nồi cháo loãng, ít rau chuối thái rối, mỗi người hai lưng đã hết nhẵn, nhưng bà vẫn vui vẻ đon đả mời hai con niêu cháo cám: ” chè khoán đây ngon đáo để cơ. ” Ngay cả khi Thị bưng bát cháo cám lên mắt tối sầm lại thì mẹ già ấy vẫn đon đả tươi cười: Cám đấy mày ạ! Hì. Đúng là một người mẹ đã thắp sáng niềm tin cho các con vượt qua đói khổ, đó cũng chính là tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Kim Lân là niềm tin là sự lạc quan yêu đời của người nông dân nói chung.

Nhà văn Kim Lân đã đồng cảm sâu sắc với hoàn cảnh khốn cùng của các nhân vật, trái tim nhà văn đã thực sự đập cùng nhịp đập với trái tim người mẹ già, nghèo để nói lên những nỗi niềm, thể hiện lẽ sống vì tình thương của mình.

Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Truyện Ngắn Vợ Nhặt

Bài làm

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.

Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này.Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.

Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.

Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì ling tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đướng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.

Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.

Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.

Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục ” Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.

Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.

Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.

Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.

Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.

Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Truyện Ngắn Vợ Nhặt Của Kim Lân

Bài văn phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim lân – Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945. Hãy phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện để làm sáng tỏ điều đó.

Yêu cầu

Đây là kiểu bài phân tích một nhân vật trong tác phẩm hướng theo yêu cầu cụ thể mà đề bài đã đặt ra: hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945. Vì vậy, hai yêu cầu chân thật và cảm động về hình ảnh nhân vật phải được làm nổi rõ trong quá trình phân tích, và khi phân tích lại phải tập trung vào tâm trạng bà cụ Tứ (qua thái độ, cử chỉ, việc làm, lời nói và ý nghĩ của nhân vật trong cảnh gặp người con dâu buổi tối và bữa cơm ngày cưới sáng hôm sau).

Bài làm

Đọc xong truyện ngắn “Vợ nhặt” của (Kim Lân), không hiểu sao trước mắt tôi cứ hiện mãi hình ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả:

– Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”,

Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng có một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng người đọc trước tấm lòng bà cụ Tứ – “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945”. Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần cuối truyện “Vợ nhặt”. Nhưng nếu không có nhân vật này, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết “Vợ nhặt” với tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Xây dựng nhân vật bà lão, dường như nhà văn muốn hướng người đọc nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng đọc tác phẩm, càng ngẫm nghĩ ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng. Điều này có lẽ nằm ngoài ý đồ sáng tạo ban đầu của tác giả. Sự kì diệu của nghệ thuật chính là ở đó. Lòng kính trọng người mẹ, kính trọng người già và nỗi đau khổ suốt đời đè nặng lên con người đã tạo nên tầm bao quát và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.

Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, ta như được sống với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ, nhiều lúc ta có cảm giác như bà “hấp háy cặp mắt” bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình mà bước vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả. Vâng, làm sao có thể nghi ngờ được điều đó khi ta chứng kiến những diễn biến tâm lí đầy tinh tế, khi ta lắng nghe những lời nói tưởng dớ dẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình của người mẹ nông dân nghèo…

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng “lom khọm đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. Nguời đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về nhà một người vợ! Băn khoăn mãi, khi đã hiểu, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?’ . Nên nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai. “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần trong “Một đám cưới” (Nam Cao). Người me ấy mở “tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp cái sự “không có nhiều tiền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả nhưng khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói… Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa bàn với các con những dự định cho tương lai…

Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng co nuôi nhau sống nổi qua thì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tách diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lối lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay sự duy tâm của người già: “… chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chết chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được?” tưởng đọc lên, ta không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rơm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “Liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp lâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. “Vợ nhặt” không còn là trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tụi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ lạc quan trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm lí mà còn rung cảm sâu sắc trước tâm tình tha thiết của người mẹ,

Bắt đẩu là cái “cúi đầu nín lặng” khi “hiểu ra cơ sự”, bà lão cho ta cảm hiểu cả một thê giới nội tâm phong phú bên trong cái vẻ ngoài lẩm cẩm của mình. Bà im lặng – mạch truyện lắng xuống, thiết tha: “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho sô kiếp đứa con mình…”. Không còn là câu trần thuật tâm lí, trong câu văn còn rưng rưng tấm lòng hòa cảm ân tình của Kim Lân. Bà lão im lặng lòng chất chứa bao nỗi niềm. Người già thường cả nghĩ. Bà thương con, tủi phận mình để rồi thương dâu. Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà” như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong cuộc đời khổ nghèo với bao thông cảm. Thương người con,dâu, bà cố nén cảm giác bất đắc dĩ trước sự viêc đã rồi: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con”, vừa “nhoi nhói một tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp”. Những lời độc thoại như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, cứ da diết xót xa trong lòng người đọc. Biết bao nhiêu là ân tình trong hai tiếng “mừng lòng” bà lão nói với các con… Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu diếm đầy ngượng ngập, vụng về những dòng nuớc mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mát nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng cao quí của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yếu thương dạt dào như biển cả… Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hóa niềm vui chân thành trong hành động “xăm xắn thì dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà… Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Vì bởi vậy, những ước muốn, hi vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ – nó trở nên đậm sâu, nồng thắm hơn trong tấm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà lão lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời tâm tình ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều… Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt truớc sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngất khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo: “Cám đáy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cô gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn… “Bà không cam để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì thấy rất rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thây rất rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng náy. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…

Tóm lại, qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Đó là một người mẹ hết lòng yêu thương con, hi sinh tất cả vì con. Trong hình ảnh bà cụ Tứ, ta như thây thấp thoáng hiện ra hình ảnh mẹ Dần, Vợ chồng Dần và cả láo Hạc (Nam Cao) những con người biết sống cho con, biết sống vì con. Dẫu chỉ là một vật phụ dẫu nhà văn không cố ý xây dựng bà cụ Tứ thành một nhân vật điển hình nhưng bằng tài năng, bằng vốn sống, bằng tình cảm thiết tha, trìu mến đối với những tấm lòng người mẹ đã khiến hình ảnh bà cụ Tứ trở nên chân thật và cảm động hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt lấp lánh, niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt bủng beo u ám của người mẹ đã tỏa rạng căn nhà mờ tối, niềm tin tưởng vào tương lai “sáng sủa” hơn của các con đã xua đi không khí buồn tủi của ngày đói. Và phải chăng, chính người mẹ già ấy là ánh sáng của thiên truyện ngắn, đằng sau cái bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ? Ánh sáng ấy làm câu chuyện anh cu Tràng nhặt được vợ trở nên thấm thía, cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của một truyện ngắn hiện thực – nhân bản. Ánh sáng bắt nguồn từ nguồn sáng nhân văn, trân trọng con người, tin tưởng ở con người sẽ sáng mãi trong lòng người đọc.

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt

Ai đó từng nói rằng ” Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?

Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.

Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.

Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt trên website Maiphuongus.net. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!