Xem Nhiều 3/2023 #️ Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú # Top 6 Trend | Maiphuongus.net

Xem Nhiều 3/2023 # Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú # Top 6 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú mới nhất trên website Maiphuongus.net. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Giới thiệu tác giả * Chú thích (SGK – tr. 21) * Bổ sung – Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu cùng lúc với con đường cách mạng. – Thơ của ông được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng. – Trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp một tâm hồn nồng nhiệt của tuổi trẻ gặp lý tưởng cách mạng. – Khi bị tù đày: Thơ của ông vượt qua song sắt để cổ vũ cuộc đấu tranh, – Bài thơ: Khi con tu hú được sáng tác tháng 7/1939 tại nhà lao Thừa Phủ II. Đọc hiểu văn bản: * Nhan đề bài thơ – Tên bài thơ: Chỉ là một vế phụ của một câu trọn ý. VD: Khi con tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng gian chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bên ngoài. Tên bài thơ đã gợi mạch cảm xúc của bài thơ. Tiếng chim tu hú được gợi từ đầu bài thơ đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng, của trời cao lồng lộng tự do. Tiếng chim đã tác động mạnh đến tâm hồn người tù. * Thể thơ: – Bài thơ được viết theo thể lục bát. – Tiếng 6 của câu 6 hiệp vần với tiếng 6 của câu 8. 1. Sáu câu thơ đầu: Cảnh vào hè + Sáu câu thơ lục bát đã mở ra một thế giới rộn ràng tràn trề nhựa sống. – Hình ảnh: nắng đào lúa chín trái cây, hạt bắp, tiếng ve, bầu trời cao rộng, cánh diều chao lượn. Mùa hè rộn rã âm thanh rực rỡ sắc màu, ngọt ngào hương vụ, bầu trời thoáng đạt tự do. Tiếng chim tu hú đã thức dậy tất cả. Đây là cảnh trong tâm tưởng người chiến sĩ trẻ trong cảnh thân thù. Từ tiếng chim tu hú tác giả đã huy động mọi giác quan để đón nhận mọi tín hiệu của sự sống bên ngoài. Đây là sự cảm nhận mãnh liệt tinh tế của mọt tâm hồn trẻ trung yêu đời nhưng đang mất tự do và khao khát tự do. 2. Bốn câu cuối: Tâm trạng của người tù + Tâm trạng đau khổ, uất ức ngột ngạt được nhà thơ biểu hiện trực tiếp. – Cách ngắt nhịp bất thường 6/2 (câu 8), 3/3 (câu 9). – Cách dùng từ ngữ mạnh.. đạp tan phòng, ngột, chết uất… – Từ ngữ cảm thán: ôi, thôi, làm sao… Tạo cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát mãnh liệt muốn thoát khỏi tù ngục, trở về cuộc sống tự do. Tiếng chim tu hú mở đầu đưa tác giả vào cảnh mùa hè với bầu trời tự do. Tiếng chim tu hú kết thúc bài thơ cách kết cấu đầu cuối tương ứng tạo hiệu quả nghệ thuật thể hiện niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy. IV. Tổng kết: Bài thơ lục bát giản dị, giọng điệu tha thiết đã thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của nhà thơ. tham khảo Cũng là một tiếng chim, nhưng tiếng gọi bầy của con chim tu hú gợi lên sự tưởng tượng phong phú về bức tranh thiên nhiên rộng lớn và tinh tế. Từ thế giới vĩ mô đến thế giới vi mô, từ cánh đồng, bầu trời, khu vườn, vạt sân đến hạt bắp, trái cây. Còn nhớ những tiếng chim độc đáo trong thơ: – Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng). – Tiếng chim tha nắng rải đồng vàng thơm (Định Hải). – Tiếng chim nghe thánh thót Văng vẳng khắp cánh đồng (Trần Hữu Thung)… ở bài thơ này, chim tu hú gọi bầy thức dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao nhiêu hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hương vị của mùa hè. Sắc màu thật là rực rỡ và lộng lẫy: – Cánh đồng lúa chín ửng vàng – Vườn cây râm mát xanh – Nắng đỏ tươi – Ngô vàng – Trời xanh thăm thẳm Những âm thanh thật là náo nức, rạo rực. Tiếng chim tu hú lảnh lót trên nền nhạc rộn rã của những tiếng ve ngân. Trên cao xanh điệp vào đó là tiếng sáo diều réo rắt. Cùng với sự đầy ắp âm thanh, màu sắc là hương thơm. Hương của đồng lúa chín, hương của những trái cây ngọt ngào từ những khu vườn, hương từ những vạt ngô đang rây vàng hạt mẩy. Cảnh vật rất sống động, chúng như đang phát triển, đang cựa quậy một cách hết sức tự nhiên, mạnh mẽ. Tiếng ve “dậy”, nắng đào “đầy”, trời xanh bát ngát như căng ra – “càng rộng càng cao”. Đến cả những cánh diều vô tri vô giác cũng biến thành vật sống – con diều sáo – bay lượn thoải mái tự do trong bầu trời khoáng đãng. Tuy nhiên, đặc sắc của bức tranh không phải chỉ là chất liệu, mặc dù chúng làm nên vẻ đẹp bề bộn, rậm rạp của Huế lúc vào hè. Đặc sắc là bức tranh này được vẽ bằng sự tưởng tượng, vẽ trong tưởng tượng. Nó là mùa hè, nhưng mùa hè “dậy” lên qua tiếng chim lọt vào buồng giam, mùa hè “nghe” thấy “cảm” thấy trong tiếng chim tu hú và xa xa là tiếng ve, tiếng sáo diều. Thiên nhiên tự do phóng khoáng bên ngoài được dành cho nhiều dòng thơ. Trong khi đó cuộc sống mùa hè của người bị giam chỉ được viết trong một dòng thơ ngắn ngủi vỏn vẹn sáu tiếng: Ngột làm sao, chết uất thôi Sự tương phản không chỉ là cảnh vật mà thậm chí đến ngay cả cấu tứ và diễn đạt. Không cần nói nhiều về tình trạng đối lập bên trong và bên ngoài phòng giam, mà vẫn cứ ngồn ngộn sự đối lập. Bởi vì rằng cảnh vật tự nó gợi lên sự đối lập. Bên ngoài là thiên nhiên phóng khoáng, dịu mát, thơm hương tràn đầy sức sống. Thế mà, cũng là mùa hè, nhưng trong phòng giam là sự ngột ngạt – và chết uất. Thế giới tù tội và thế giới tự do vốn là đối lập, nhưng nếu như không đặt chúng cạnh nhau, không so sánh bởi cùng một thước đo thì sự đối lập và tương phản ấy sẽ không có được tính chất gay gắt mãnh liệt. Tiếng chim tu hú cứ như khoan vào trong phòng giam để cho thế giới bên ngoài tràn vào ào ạt. Mà như vậy càng khiến cho sự ngột ngạt càng trở nên ngột ngạt, sự khao khát càng thêm khao khát, sự bức bối càng thêm bức bối. Đến nỗi người trong tù phải kêu lên, phải khao khát hành động đập phá, tháo cũi, sổ lồng. Người tù muốn đập tan phòng để ôm lấy mùa hè tự do. Người tù cảm thấy không thể sống nổi cuộc sống tù tội. Trong khi đó tiếng chim tu hú vẫn cứ giục giã, giục giã… Ban đầu tiếng chim tu hú chỉ là tiếng chim hiền lành gọi bầy, nhưng đến đây nó thấm đầy tâm trạng cho nên thành tiếng kêu. Nó Kêu ở ngoài trời, nó Kêu ở nơi tự do, nó Kêu ở trong lòng người. Nó khắc khoải, giục giã, thiêu đốt. Bài thơ kết thúc ở tiếng chim cứ kêu cứ kêu… Người tù có đạp tan phòng giam, có bị chết vì ngột, vì uất ở trong đó hay không bài thơ không nói rõ. Nhưng người đọc thì rõ điều này: Người thanh niên 19 tuổi “gân đang săn và thớ thịt căng da” khao khát tự do, căm thù sự giam cầm trói buộc. Cuộc đấu tranh của anh cực kì quyết liệt: – Hoặc là phá tan tù ngục – giành tự do – Hoặc sẽ bị nhà tù tiêu diệt – chết ngột, chết uất. Chỉ có một cách lựa chọn duy nhất giữa hai khả năng đó. Con chim tu hú cứ kêu hay đó là tiếng đời, tiếng gọi do như thúc giục, như khích lệ đập tan cái xà lim nhốt người, và tiến tới đập tan cái chế độ dã man đang cầm tù cả một dân tộc, một đất nước.

Giáo Án Ngữ Văn Lớp 8 Tiết 78 Khi Con Tu Hú

Cảm nhận được lòng yêu sự sống, niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ còn trẻ tuổi đang bị giam cầm trong tù ngục được thể hiện bằng hình ảnh gợi cảm và thể thơ lục bát giản dị mà tha thiết.

– GV: Giáo án, SGK, SGV

– HS: Bài soạn, SGK

III/. Tiến trình tổ chức các hoạt động:

a/. Đọc thuộc lòng bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh?

b/. Đọc ghi nhớ (ý nghĩa) của bài thơ?

2/. Bài mới: GV giới thiệu bài

Tuần 20 BÀI 19 Tiết 78 KHI CON TU HÚ Tố Hữu I/. Mục tiêu cần đạt: HS Cảm nhận được lòng yêu sự sống, niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ còn trẻ tuổi đang bị giam cầm trong tù ngục được thể hiện bằng hình ảnh gợi cảm và thể thơ lục bát giản dị mà tha thiết. II/. Chuẩn bị: – GV: Giáo án, SGK, SGV – HS: Bài soạn, SGK III/. Tiến trình tổ chức các hoạt động: 1/. Kiểm tra: a/. Đọc thuộc lòng bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh? b/. Đọc ghi nhớ (ý nghĩa) của bài thơ? 2/. Bài mới: GV giới thiệu bài Hoạt động của thầy và trò Bài học sinh ghi Hoạt động I: HS: Đọc chú thích SGK Hoạt động II: GV: Đọc văn bản HS: Đọc lại văn bản GV: Khi con tu hú gọi bầy là khi nào? HS: Khi hè đến. GV: Vì sao tiếng tu hú kêu lại tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ như thế? HS: Vì đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, sự sống tưng bừng của trời cao lồng lộng và tự do mà lúc này tác giả lại ở trong tù. GV: Hãy nêu nội dung cảu 2 đoạn? HS: -Đoạn1: Cảnh mùa hè -Đoạn 2: Tâm trạng người tù GV: Hãy xác định phương thức biểu đạt của mỗi đoạn? HS: -Đoạn 1: miêu tả -Đoạn 2: biểu cảm → Kết hợp miêu tả và biểu cảm GV: Thời gian mùa hè được gợi tả bằng những âm thanh gì? HS: Tiếng tu hú và tiếng ve sầu GV: một sự sống ntn được gợi lên từ những âm thanh ấy? HS: Rộn rã, tưng bừng GV: Mùa hề được gợi tả bằng những màu sắc gì? HS: Vàng, hồng, xanh GV: Qua các hình ảnh trên, sự sống hiện lên như thế nào? HS: đẹp, thanh bình. GV: Tác giả đã nhắc đến những sản vật điển hình nào của mùa hè? HS: Lúa, trái cây, bắp. GV: Các sản vật ấy gợi lên một sự sống ntn? HS: Sinh sôi, nảy nở, đầy đặn, ngọt ngào. GV: Bầu trời hạ cao xanh, nơi những tiếng sáo diều vang vọng trong bài thơ. “Trời xanh càng rộng càng cao – Đôi con diều sáo lộn nhào từng không” đã gợi lên một không gian ntn? HS: Giàu sinh lực, phóng túng, tự do Giảng: Từ đó cho chúng ta thấy tác giả có tâm hồn yêu cuộc sống nồng nàn, tha thiết với cuộc đời tự do, nhạy cảm với mọi biến động của cuộc sống và năng lực yêu cuộc sống tự do còn được Tố Hữu thể hiện trong vần thơ khác. “Cô đơn thay là cảnh thân tù! Tai mở rộng và lòng tôi luôn rạo rực Tôi lắng nghe tiếng đời lăng náo nức Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu! GV: Nhà thơ đãđón nhận cảnh tươi đẹp của mùa hè bằng thính giác hay bằng sức mạnh của tâm hồn? HS: Bằng sức mạnh của tâm hồn, bằng tấm lòng. GV: Trạng thái tâm hồn của tác giả lúc này ntn? HS: Nồng nhiệt với cuộc sống tự do GV: Con người muốn “đạp tan phòng” giam hãm mình khi “nghe hè dậy bên lòng” vì lí do gì? HS: Bực bội, u uất trong không gian chật chội thiếu sinh khí (ngột làm sao, chết uất thôi) GV: Tình cảm của tác giả được bộc lộ ntn trong đoạn thơ? HS: Bộc lộ trực tiếp GV: từ đó tâm hồn của tác giả ntn? HS: Đầy nhiệt huyết sống, khao khát sống, khao khát tự do. GV: Mở đầu và kết thúc bài thơ đều có tiếng tu hú kêu, nhưng tâm trạng người tù khi nghe tiếng tu hú kêu thể hiện ở câu đầu và câu cuối khác nhau ntn? HS: -Hai câu đầu: là tâm trạng hòa hợp với sự sống mùa hè, biểu hiện niềm say mê cuộc sống. -Hai câu cuối: Cảm xúc u uất, nôn nóng khắc khoải – tâm trạng của kẻ bị cững đoạt tự do. GV: Qua câu thơ cuối: “Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu”, em có cảm nhận được điều mãnh liệt nào diễn ra trong tâm hồn con người? HS: Thèm khác cuộc sống tự do. GV: Bài thơ được viết theo thể thơ gì? HS: Lục bát. Hoạt động III: GV: Hãy nêu ý nghĩa của bài thơ? HS: Trả lời phần ghi nhớ (SGK. 20) I/. Giới thiệu: 1/. Tác giả: Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quãng Thọ, huyện Quãng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. 2/. Tác phẩm: Các tác phẩm chính: các tập thơ Từ ấy (1937 – 1964), Việt Bắc (1946 – 1954), Gió lộng (1955 – 1961), Ra trận (1962 – 1917), Máu và hoa (1972 – 1977), Một tiếng đờn (1979 – 1992), … III/. Tìm hiểu văn bản: 1/. Cảnh mùa hè: -Khi con tu hú gọi bầy -Vườn râm dậy tiếng ve ngân → Rộn rã, tưng bừng. -Vàng (bắp rây vàng hạt) -Hồng (nắng đào) -Xanh (trời xanh) → Một vẻ đẹp tươi sáng, lộng lẫy, thanh bình. -Lúa chiêm đang chính -Trái cây ngọt dần -Bắp rây vàng hạt → Sự sống sinh sôi, nảy nở, đầy đặn, ngọt ngào. Giàu sinh lực, phóng túng, tự do 2/. Tâm trạng người tù: -Ta nghe hè dậy bên lòng Nồng nhiệt với cuộc sống tự do. -Bực bội u uất khi ở trong nhà giam. Thèm khác cuộc sống tự do. III/. Tổng kết: Ghi nhớ (SGK. 20) 3/. Củng cố: -Đọc lại bài thơ -Đọc phần ghi nhớ Học thuộc lòng văn bản và ghi nhớ. 4/. Hướng dẫn chuẩn bị bài mới: Soạn bài: Câu nghi vấn (tiếp theo) Trả lời phần III (SGK. 21)

Soạn Bài Khi Con Tu Hú Sbt Ngữ Văn 8 Tập 2

– Có thể có nhiều cách diễn đạt khác nhau, miễn sao câu văn xuôi phải đáp ứng được hai yêu cầu :

+ Mở đầu bằng bốn chữ “Khi con tu hú”.

+ Nêu tóm tắt nội dung của bài thơ Khi con tu hú.

HS có thể viết : ” Khi con tu hú kêu báo hiệu mùa hè, người tù cách mạng hình dung ra cảnh mùa hè đất trời cao rộng, sức sống tràn đầy ở bên ngoài, anh càng cảm thấy ngột ngạt, chết uất trong phòng giam chật chội càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do “.

– Tiếng chim tu hú kêu đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, bởi lẽ :

+ Khi đó (năm 1939), Tố Hữu đang rất trẻ, thiết tha yêu đời, vừa mới được giác ngộ lí tưởng của Đảng, đang say mê hoạt động cách mạng với niềm vui phơi phới đầy lãng mạn thì bị địch bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế). Bị nhốt chặt trong phòng giam âm u, cách biệt hoàn toàn với cuộc sống rộng lớn bên ngoài, người chiến sĩ trẻ yêu đời cháy bỏng ấy cảm thấy đau khổ vô cùng.

+ Bị cách li với cuộc sống bên ngoài, tác giả ra sức lắng nghe mọi âm thanh vang vọng vào nhà tù. Lúc này thính giác trở thành kênh duy nhất để nhà thơ có thể sống với cuộc đời tự do ở ngoài nhà tù. Do đó, mọi âm thanh đều được đón nhận với tâm trạng đầy háo hức : “Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức / Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu” ( Tâm tư trong tù).

+ Tiếng chim tu hú kêu vang vọng vào trong nhà tù, báo hiệu mùa hè đã đến. Với tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và nhất là, với niềm khát khao tự do mãnh liệt, người tù cách mạng trẻ tuổi đã hình dung ra ở ngoài kia là một mùa hè tưng bừng, rộn rã âm thanh (tiếng chim tu hú gọi bầy, tiếng ve ran, tiếng sáo diều trên từng không), chan hoà ánh sáng, rạng rỡ sắc màu (ngô vàng, nắng hồng, trời xanh),… Đấy còn là một mùa hè với bầu trời cao lồng lộng để những cánh diều sáo tha hồ nhào lộn giữa từng không. Tất cả đều đối lập với tình trạng bị giam cầm mà người chiến sĩ đang phải chịu đựng. Như vậy, tiếng chim tu hú khiến Tố Hữu hình dung ra một thế giới tự do bao la và tràn đầy sức sống. Vì thế, anh càng thâm thía hơn cái bức bối, ngột ngạt không thể chịu nổi trong nhà tù.

Soạn Bài Lớp 8: Khi Con Tu Hú

Soạn bài lớp 8: Khi con tu hú

Soạn bài lớp 8: Khi con tu hú

1. Tác giả

Nhà thơ Tố Hữu (1920 – 2002), tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, từ sáu, bảy tuổi Tố Hữu đã học và tập làm thơ. Giác ngộ cách mạng trong thời kì Mặt trận Dân chủ và trở thành người lãnh đạo Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế. Những bài thơ đầu tiên được sáng tác từ những năm 1937 – 1938. Tháng 4 – 1939, bị thực dân Pháp bắt, giam giữ ở các nhà lao miền Trung và Tây nguyên. Tháng 3-1942, vượt ngục Đắc Lay, tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Huế. Sau Cách mạng, Tố Hữu đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Đảng và chính quyền (từng là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).

Tác phẩm đã xuất bản: Từ ấy (thơ, 1946); Việt Bắc (thơ, 1954); Gió lộng (thơ, 1961); Ra trận (thơ, 1971); Máu và hoa (thơ, 1977); Một tiếng đờn (thơ, 1992); Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973); Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981).

Nhà thơ đã được nhận: – Giải nhất Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc); Giải thưởng văn học ASEAN (1996); Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (năm 1996).

2. Tác phẩm

Khi con tu hú được Tố Hữu viết khi ông đang bị địch giam trong nhà lao Thừa Phủ (Huế).

Thơ viết trong tù có nhiều loại, thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau. Có khi nhà thơ diễn tả nỗi khổ cực của người tù:

(Nhật kí trong tù – Hồ Chí Minh)

Cũng có khi nhà thơ vượt lên trên cảnh ngộ tù đày để chủ động đến với thiên nhiên, rèn luyện ý chí.

Nhưng phổ biến nhất là những câu thơ diễn tả nỗi khổ tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Càng khao khát được hoạt động, được cống hiến, người tù càng cảm thấy bức bối, uất ức khi bị giam hãm giữa bốn bức tường ngột ngạt, chứng kiến thời gian đằng đẵng cứ chầm chậm trôi qua trong khi ở bên ngoài, phong trào cách mạng đang sôi sục.

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nhan đề của bài chỉ là một cụm từ chỉ thời gian (vẫn chưa đầy đủ). Nhan đề của bài thơ là một ẩn ý vừa chỉ một thời điểm bừng lên của thiên nhiên, tạo vật, vừa chỉ sự khát khao hoạt động của con người.

Có thể tóm tắt nội dung bài thơ như sau: Khi con tu hú gọi bầy (cũng là khi mùa hè đang đến), người tù cách mạng càng thấy ngột ngạt, cô đơn trong phòng giam chật hẹp, càng khát khao được sống cuộc sống tự do bay bổng ở ngoài kia.

Sở dĩ, tiếng tu hú kêu lại có tác động mạnh đến tâm hồn của nhà thơ bởi, nó là tín hệu báo những ngày hè rực rỡ đến gần. Nó cũng là biểu tượng của sự bay nhảy tự do.

2. Trong bài Tâm tư trong tù, Tố Hữu từng viết: Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!

“Ở ngoài kia” là không gian tự do, nơi người tù được hoà mình trong “tiếng đời lăn náo nức”, tiếng lạc ngựa “rùng chân bên giếng lạnh”, như vẫy gọi, như thúc giục người chiến sĩ xung trận. Trong bài Khi con tu hú, tứ thơ lại được sáng tạo theo một hướng khác, có phần kín đáo hơn. Mới đọc bài thơ chúng ta không biết người thơ đang ở trong tù:

Khi con tu hú gọi bầyVườn râm dậy tiếng ve ngân

Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào3. Mộng tưởng càng tươi đẹp bao nhiêu thì hiện thực lại càng cay đắng, nghiệt ngã bấy nhiêu. Trời xanh càng rộng càng cao

Đôi con diều sáo lộn nhào từng không… Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.

Không phải tiếng chim đơn độc mà là tiếng chim “gọi bầy”, tiếng chim báo tin vui. Nghe chim tu hú gọi nhau biết rằng “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Nhưng không phải chỉ có thế. Tiếng chim gợi lên một thế giới tràn ngập âm thanh, màu sắc, hình ảnh:

Theo chúng tôi

Đó là những sắc màu, âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Màu vàng của ngô, màu hồng của nắng nổi bật trên cái nền xanh của đất trời, quyện với tiếng ve ngân và còn được điểm xuyết thêm bằng hình ảnh “Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Không gian tràn trề nhựa sống, đang vận động, sinh sôi nảy nở từng ngày.

Đọc kĩ lại những câu thơ, ta bỗng phát hiện thêm nhiều điều kì lạ khác nữa. Các sự việc không được miêu tả trong trạng thái bình thường, chúng được tô đậm, được đẩy lên mức cao nhất có thể. Không phải “hạt bắp vàng” mà là “bắp rây vàng hạt” nắng là “nắng đào” màu sắc lộng lẫy nhất, trời xanh thì “càng rộng càng cao” tầm mắt cứ được mở rộng ra thêm mãi. Tiếng ve không chỉ “ngân” mà còn “dậy” lên, hai tính từ miêu tả âm thanh kết hợp với nhau khiến cho tiếng ve rộn rã khác thường.

Chừng như để hoà điệu với những âm thanh và hình ảnh đó, cách diều sáo cũng không chịu “lững lờ” hay “vi vu” mà “lộn nhào từng không” Cánh diều như cũng nô nức, vui lây trong không gian lộng lẫy màu sắc và rộn rã âm thanh đó.

Sở dĩ có hiện tượng đó là bởi tác giả đã không trực tiếp quan sát và miêu tả cảnh vật. Nhà thơ đang bị giam trong tù. Những bức tường kín mít vây xung quanh làm sao cho phép nhà thơ nhìn ngắm hay lắng nghe… Tất cả đều được tái hiện từ trí tưởng tượng, trí nhớ và hơn thế nữa là tình yêu, lòng khát khao mãnh liệt được tháo cũi sổ lồng. Trong cảnh tù đày, màu ngô lúa hay màu nắng, màu của trời xanh bỗng trở nên quý giá vô ngần, bởi thế nên những màu sắc, âm thanh hết sức bình thường bỗng trở nên lung linh, huyền ảo, rực rỡ hẳn lên. Đoạn thơ này thể hiện tình yêu sâu sắc của nhà thơ đối với cuộc sống, đối với quê hương.

Tưởng như sự liên kết giữa hai đoạn thơ này không thật chặt chẽ và tứ thơ không liên tục. Khi hướng ra bên ngoài, nhà thơ tả cảnh nhưng khi hướng vào trong lại tả tâm trạng. Kì thực đây chính là sự liên kết vô cùng khéo léo và tinh tế. Mối dây liên kết ấy chính là tiếng chim tu hú. Tiếng chim gọi bầy tha thiết gợi mở một thế giới bao la và vô cùng sinh động. Nhưng thế giới đó càng rộng rãi, rực rỡ bao nhiêu thì lại càng khiến cho người tù (đã bị tách biệt khỏi thế giới ấy) cảm thấy ngột ngạt và khao khát bấy nhiêu.

Tiếng chim tu hú ở đầu và cuối của bài thơ tuy đều biểu trưng cho tiếng gọi tha thiết của tự do, của cuộc sống ngoài kia đầy quyến rũ đối với người tù nhưng tâm trạng của người tù khi nghe tiếng tu hú lại rất khác nhau. Ở câu thơ đầu, tiếng tu hú gợi hình ảnh cuộc sống đầy hương sắc, từ đó gợi ra cái khát khao về cuộc sống tự do. Thế nhưng, đến câu kết, tiếng chim ấy lại khiến cho người tù có cảm giác bực bội, đau khổ vì chưa thể thoát ra khỏi cảnh tù đầy.

4. Bài thơ hay ở những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi cảm, ở nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên và cả ở những cảm xúc thiết tha, sâu lắng, thể hiện được nguồn sống sục sôi của người cộng sản.

III. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

Các bài thơ viết về nhà tù của Tố Hữu luôn luôn có sự đối lập sâu sắc giữa hai thế giới: một thế giới của tự do rộn rã tiếng chim ca, suối chảy, rộn rã tiếng kèn xung trận đối lập với thế giới chật hẹp, ngột ngạt của nhà tù. Sự đối lập đó càng lớn thì khát vọng tự do càng được biểu hiện mãnh liệt.

Bài thơ có hai đoạn thơ thể hiện hai hoàn cảnh, tâm trạng đối lập, do đó khi đọc cần chú ý giọng điệu rộn rã, tươi vui ở 6 câu thơ đầu và giọng điệu căm uất, nghẹn ngào ở 4 câu thơ còn lại.

Bạn đang xem bài viết Giáo Án Ngữ Văn 8: Khi Con Tu Hú trên website Maiphuongus.net. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!