Xem Nhiều 3/2023 #️ Diệt Trừ Nghiệp Ác Do Lời Nói Gây Ra # Top 3 Trend | Maiphuongus.net

Xem Nhiều 3/2023 # Diệt Trừ Nghiệp Ác Do Lời Nói Gây Ra # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Diệt Trừ Nghiệp Ác Do Lời Nói Gây Ra mới nhất trên website Maiphuongus.net. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Trong cuộc sống, ta thấy có người khi nói dù chỉ một lời, ai nghe thấy cũng ưa, cũng thương mến, có cảm tình, tin tưởng được và cũng đều nghe và làm theo. Cũng có người khi mở miệng nói, dù có nói nhiều cũng không ai tin, không ai muốn nghe, không ai ưa thích. Có những người khi nói thường đem lại sự êm ái, mát dịu trong tâm hồn người nghe, làm cho người nghe có cảm giác như vừa uống được một dòng nước mát. Cũng có những người khi nói làm cho người nghe phải khó chịu, bực bội. Do đó lời nói rất là quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống hằng ngày của tất cả mọi người chúng ta. Vì vậy Đức Phật dạy chúng sinh phải thực hành khẩu nghiệp sao cho không gây nên nghiệp ác, tức là ăn nói phải đúng pháp để tránh nghiệp dữ do lời nói gây ra, tức là phải thực hành các điều lành về khẩu nghiệp.

Vậy, khẩu nghiệp là nghiệp do lời nói gây ra, tác động lợi hoặc hại, tốt hay xấu có thể sảy ra ngay tức thì, cũng có thể để lại hậu quả cho sau này hoặc cho kiếp sau. Khẩu nghiệp có thể là nghiệp lành nếu điều nói ra gây ra những hậu quả tốt lành do làm lợi cho người khác hoặc cho cộng đồng. Khẩu nghiệp có thể là nghiệp ác nếu lời nói gây ra những hậu quả xấu làm hại người khác hoặc làm hại cho cộng đồng.

Khẩu nghiệp tạo ra tốt hay xấu có thể do nội dung lời nói, do sắc thái giọng nói và có thể do cả thái độ khi nói. Do nội dung lời nói không chính pháp gây ra những nghiệp xấu. Bản thân mỗi nghiệp nói ấy còn được biểu hiện dưới nhiều vẻ, nhiều hình thái khác nhau như thái độ và nét mặt khi nói không đúng đắn, như nói với sắc thái giọng nói không đúng đắn. Những điều đó phụ thuộc vào động cơ, mục đích của người nói, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và điều kiện khi nói.

Có thể thấy rằng nếu ai đó cảm thấy cuộc đời nhiều đau khổ, không vui vẻ, chẳng bình yên, tức là chính người đó cần phải điều chỉnh lại lời nói, cho vừa dễ nghe, cho vừa dễ thương. Tại sao như vậy? Bởi vì, chính người đó cũng muốn nghe những lời nói dễ nghe, dễ thương như vậy. Hoặc là, người đó cần phải điều chỉnh lại âm thanh, sắc thái giọng nói sao cho vừa đủ nghe, sao cho để khỏi làm phiền lòng người khác ở xung quanh đang cần sự yên tĩnh, để tâm hồn được thanh tịnh, hay để được nghỉ ngơi thoải mái.

A. Giải trừ khẩu nghiệp do vọng ngữ (nói dối).

Vọng ngữ (hay nói lời dối trá) là một giới cấm đối với người Phật tử. Khi bước vào con đường học Phật, muốn trở thành Phật tử cần phải thọ tam quy ngũ giới. Tam quy là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ngũ giới là năm giới cấm trong đó giới cấm thứ tư là không nói dối.

Không nói dối theo nghĩa rộng của Tam quy Ngũ giới bao gồm không nói đúng sự thật, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời độc ác và không nói lời thêu dệt. Theo nghĩa hẹp chỉ là nói dối, tức là nói không đúng với sự thật.

Có nhiều loại nói dối : Nói dối vì đùa vui, nói dối với mục đích lừa phỉnh, nói dối để khoe khoang, nói dối vì sợ hãi khiếp nhược, nói dối để thu lợi bất chính, v.v…Tùy theo mục đích của nói dối mà tạo ra nghiệp tội nặng nhẹ khác nhau. Tuy nhiên, có những trường hợp nói dối với mục đích cứu khổ, độ sinh, giải cứu nguy nan tính mạng cho chúng sinh, cho người và vật thì mới không phạm tội.

1. Người hay nói dối không ác ý mà chỉ có tính đùa vui cũng gây ra nghiệp quả không tốt vì nó làm cho họ quen với thói xấu ấy, và làm cho người chung quanh không tin ở lời nói của họ nữa, dù đôi khi họ nói thật. Có câu chuyện kể về một anh chàng thích trêu đùa người khác để mua vui, anh nói dối làm nhiều người bị lừa. Một lần, hai lần rồi nhiều lần bị lừa làm người ta không tin những lời anh nói ra nữa. Cho đến một lần nhà bị cháy, anh kêu cứu nhưng mọi người cho rằng anh lại nói đùa và không ai đến cứu, kết quả là ngôi nhà anh cháy ra tro. Đó là cái nghiệp sinh báo cho anh trong ngay đời này. Người hay nói dối dù chỉ để đùa vui cũng tạo ra nghiệp ác, họ làm nhiều người không tin tưởng, dễ bị xếp vào hạng người lừa lọc, không đạo đức. Người đời thường xa lánh những người ăn nói không có nhân cách đúng đắn gây bất lợi cho cuộc sống bình thường.

thường là người thiếu bản lĩnh. Những người như thế thường không có chí khí, thiếu nghị lực. Họ bị khuất phục trước uy quyền hoặc trước sức mạnh nên phải nói dối, nói không đúng sự thật gây ra nhiều tội lỗi cho mình và cho người khác như trường hợp bị người xấu ép khai khống hoặc vu khống đổ tội cho người khác. 2. Người nói dối vì sợ hãi khiếp nhược Trái lại, những người chiến sĩ chiến đấu vì chính nghĩa không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù nên không bao giờ khai sự thật những hoạt động của tổ chức của mình. Và nếu có khai thì khai không đúng sự thật, đó tuy cũng là nói dối, nhưng việc nói dối này là chính nghĩa đã cứu nguy cho biết bao tính mạng của đồng bào đồng chí. Sự nói dối này không có tội mà lại còn có phúc. Người hay nói dối vì sợ hãi khiếp nhược luôn tạo ra nghiệp ác, tự làm cho họ quen tính che giấu tội lỗi và không chịu sửa chữa, làm cho người chung quanh không tôn trọng và tin tưởng.

thường là kẻ ham danh, thích địa vị, thích mọi người nể phục mình, cho là mình thông minh, tài giỏi, hơn người. Nói dối vì khoe khoang xuất phát từ lòng tham (tham danh) là phạm vào điều thứ 4 (không nói dối) mà cũng phạm vào điều thứ 8 (tham lam) trong Hành Thập thiện. Khoe khoang tài giỏi ngoài đời để được tiếng thơm giả tạo cũng 3. Người nói dối vì khoe khoang tạo ra nghiệp ác. Và theo kinh Phật nếu người theo Đạo mà nói dối mình đã thành Pháp sư, đã chứng quả Thánh, hay đã đắc đạo để cho mọi người kính phục, sùng bái mình thì lại càng mắc tội đại vọng ngữ và sẽ bị đọa vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).

4. Người nói dối vì vụ lợi thường là kẻ tham lam, thích tiền tài, ham làm giàu một cách không chính đáng, làm giàu không bằng sức lao động và tài năng trí óc của mình. Họ ham lợi, chỉ vì lợi nhuận mà mắc tội nói dối, tội lừa lọc. Nhẹ là tội buôn bán gian tham, cân điêu, nói thách. Nặng là tội kết bè kéo cánh lừa dối chiếm đoạt của cải của tập thể hoặc của công. Tội dối trá trong thanh quyết toán công trình, rút ruột công trình, tội lợi dụng lòng tin lừa lọc người ngay để chiếm đoạt tiền của đều là tội nặng. Tội nói dối lừa gạt chiếm đoạt tiền bạc, của cải của người khác đều xuất phát từ lòng tham (tham tiền tài) cũng là một điều phạm vào nghiệp thứ 8 trong Hành Thập thiện nghiệp.

Thời vua Quang Trung, khi quân lính của triều đình Nhà Tây Sơn truy lùng Nguyễn Ánh, trước tình hình khốn quẫn không có lối thoát, ông phải chạy vào một ngôi chùa, xin nhà sư cứu mạng. Ngôi chùa rất nghèo và rất đơn sơ, vị sư đành cho khiêng một trong ba tượng Phật xuống đất và bảo Nguyễn Ánh lên ngồi trên bàn thờ, thế chỗ tượng Phật ấy. Khi quân lính đến hỏi: Nãy giờ ông có thấy ai chạy vào chùa không, thì nhà sư bình tĩnh trả lời: A Di Đà Phật! Bần đạo bận tụng kinh, niệm Phật nên không thấy ai cả. Quân lính đã bỏ đi. Nhà sư đã nói dối để cứu mạng người, người ấy sau này là vua Gia Long. Việc nói dối cứu người như vậy được xem là không phạm tội.

B. Giải trừ khẩu nghiệp do lưỡng thiệt (nói lưỡi hai chiều).

Lưỡng thiệt tức là nói lưỡi hai chiều, nói lật lọng, lời nói lúc thế này, lúc thế khác, nói tráo trở, lấy trái làm phải, lấy phải làm trái. Những người loại này thường đem chuyện người này nói ra nói vào dèm pha với người khác với tính chất nói xấu và khiêu khích, nhạo báng, khinh chê, gây ác cảm để hai bên đi đến bất hòa, mâu thuẫn và thù hận lẫn nhau. Họ còn nói lật lọng, trước nói thế này, sau lại nói thế khác nhằm mục đích thay đổi đen trắng, có lợi cho mình.

Người nói lưỡi hai chiều thì một lời họ nói ra có thể làm cho tan vỡ hạnh phúc gia đình của người khác, có thể làm cho mọi người, nghi ngờ lẫn nhau. Đó là những lời nói mập mờ không rõ, đặt điều thêm bớt, đúng nói sái, sai nói đúng, có lại nói không, không lại nói có. Nhiều khi nói lời cố ý hại người, người chưa bị hại, mình đã lĩnh đủ, hậu quả tức thì.Trong cuộc sống cũng có những người thường tạo khẩu nghiệp nặng, họ ăn nói như ngậm máu phun người, bới chuyện thiên hạ, kích động bên đông, kiếm chuyện bên tây, đâm bị thóc, chọc bị gạo, tròng ghẹo mọi người. Người ăn nói lật lọng, nói lưỡi hai chiều thường bị người đời không tin tưởng, bị khinh thường và xa lánh.

Người nói lật lọng, nói lưỡi hai chiều thường có cái tâm không trong sáng, ưa gây lộn, thích làm hại người khác bằng cái tâm ác độc có thể vì mục đích vụ lợi và cũng có thể do tâm sận hận một điều gì mà không giải quyết được.

Người nói lật lọng, nói lưỡi hai chiều có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau :

1. Nói lưỡi hai chiều vì lòng tham. Đó là trường hợp có dụng ý muốn chiếm đoạt một cái gì đó, đã đang tâm đặt chuyện xấu cho người này rồi đem nói cho người khác nhằm chia rẽ họ để đoạt được mục đích của mình. Có câu chuyện trong kinh kể rằng : Một vị tỳ kheo nọ trong một chuyến du hành dừng chân tại một tu viện do hai vị tăng khác trụ trì. Vị tỳ kheo này đăng đàn giảng pháp, được dân chúng hoan nghênh, liền nổi ý xấu muốn chiếm tu viện cho riêng mình. Vị tỳ kheo đó bèn có những lời nói gây chia rẽ hai vị tăng trụ trì kia, vốn là huynh đệ thân thiết với nhau, để hai vị này hiểu lầm nhau mà cùng bỏ đi khỏi tu viện. Vị tỳ kheo chiếm được tu viện, nhưng về sau, khi viên tịch, tỳ kheo đó tái sinh làm ngạ quỷ có hình thù xấu xa, trong miệng mọc ra một cái đuôi đầy ròi bọ lúc nhúc. Ðức Mục Kiền Liên gặp ngạ quỷ này, trở về bạch với Ðức Phật. Ðức Phật giảng giải về hậu quả tai hại của lời nói đâm thọc, gây chia rẽ bằng một bài kệ trong kinh Pháp cú . Tội nói lưỡi hai chiều của vị tỳ kheo kể trên đã gây ra nghiệp ác bị đọa làm ngạ quỷ.

2. Nói lật lọng hay nói lưỡi hai chiều do ác ý vì hiềm thù thường sảy ra trong trường hợp người nói mang sẵn trong tâm một mối sân hận thù hằn với một người nào đó, nhưng không trực tiếp hại người ấy mà lại dùng người khác làm hại. Họ đem tâm bịa đặt chuyện xấu cho người đó rồi đem nói với người kia để hai người hiểu lầm nhau, kích động hai bên mâu thuẫn nhau dẫn đến kết quả tác hại xấu cho người mà họ thù hằn, thậm chí đi đến khuynh gia bại sản hoặc mất mạng.

Người không nói lưỡi hai chiều, không nói lật lọng, thường được thân bằng quyến thuộc, kẻ xa, người gần đều kính mến. Người không nói lưỡi hai chiều thường dùng lời lẽ dịu dàng, êm ái, an ủi, khuyên giải và giúp cho anh em, bà con, hàng xóm được hòa thuận, khiến cho ai nấy cũng vui vẻ, an lòng, đến đâu cũng được mọi người kính yêu.

Để giải trừ khẩu nghiệp do nói lật lọng, do nói lưỡi hai chiều, người Phật tử phải thực hành chính pháp, nói lời chân thật, diệt trừ lòng tham, diệt trừ ác ý. Cần thực hiện giới định tuệ và trước khi nói điều gì cần phải định tâm lại xem nói điều đó ra có được hay không, dùng trí để xét đoán nếu nói lật lọng như thế thì dẫn đến tác hại như thế nào. Hơn nữa trong định, dùng tứ niệm xứ để quán chiếu thân tâm, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã để loại trừ ác ý gây nên khẩu nghiệp xấu.

C. Giải trừ khẩu nghiệp do ỷ ngữ (nói lời thêu dệt ).

Người nói lời thêu dệt là người thường dùng những lời trau chuốt, ngọt ngào hoặc thêm mắm thêm muối cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Nghiệp nói lời thêu dệt thường có mấy loại :

1. Người nói lời thêu dệt thường có mục đích muốn cho người khác hiểu hết giá trị những lời nói của mình, hoặc làm cho người nghe nể phục mình nên mới nói thêu dệt thêm để tăng phần hấp dẫn. Đó là xuất phát từ tâm tham danh, muốn tỏ vẻ là ta hơn người. Cái đó đồng thời cũng biểu hiện cái Ngã (cái Tôi) quá lớn. Điều này sảy ra trong trường hợp mình làm được một việc bình thường lại hay thêu dệt, khoe khoang nói làm nhiều việc lớn.

5. Nhiều khi người nói lời thêu dệt bắt đầu từ sự hoang tưởng, ngu tối, người nói cũng không rõ mình nói việc như thế hậu quả sẽ đi về đâu.

Ngược lại người tu thập thiện không nói lời ỷ ngữ mà phải nói hợp với Phật Pháp, không vì lợi mình hay tật đố mà bịa chuyện hại người khác, không làm tổn hại tính mạng người khác hoặc không vì một chút lòng ganh tỵ, hoặc thù vặt mà dùng lời thêu dệt để lung lạc lòng người hoặc quyến rũ, gạ gẫm người khác, không làm tổn hại danh dự và tài sản của họ nhằm mục đích đem lại lợi ích cho mình, hoặc được tiếng thơm tiếng tốt.

Để giải trừ khẩu nghiệp do nói lời thêu dệt, người Phật tử phải thực hành chính pháp, nói theo chính ngữ, diệt trừ tật xấu, tính tham, diệt trừ ác ý. Cần thực hành giới định tuệ để ngăn ngừa tật nói lời thêu dệt, mà chỉ nói những điều mà Phật đã dạy trong chính ngữ. Trước khi nói cần suy nghĩ xem lời nói nếu nói ra sẽ gây ra điều gì có lợi hay có hại, cần phải định tâm lại xem nói điều đó ra có được hay không, dùng phép quán chiếu và dùng trí để xét đoán nếu nói như thế thì dẫn đến tác hại như thế nào.

D. Giải trừ khẩu nghiệp do ác khẩu (nói lời hung ác)

Ái ngữ trong Tứ Nhiếp pháp mà Đức Phật giảng giải nói chung bao gồm cả việc không nói dối, không nói lưỡi hai chiều, không nói lời thêu dệt và không nói lời độc ác. Riêng nói lời hung ác (tức ác khẩu) là một phạm trù rất rộng rãi bao gồm toàn bộ phần giao tiếp ngôn ngữ trong quan hệ xã hội về nhiều mặt. Nó thể hiện từ nhẹ đến nặng, từ lời nói không khéo, không nhẹ nhàng, thiếu lịch sự, thiếu suy nghĩ đến việc cố tình nói thô lỗ, nói đay nghiến, trách móc, cục cằn, dữ dằn, châm chọc, ác độc v.v…Người nói lời hung ác không những chỉ gây ra khó chịu cho người nghe mà còn gây nhiều phiền toái cho chính bản thân mình và vì vậy có tác hại đến mọi công việc, mọi quan hệ trong xã hội, từ quan hệ cha con, anh em, vợ chồng trong gia đình, quan hệ bạn bè, thầy trò, chủ tớ, đến quan hệ với hàng xóm, láng giềng, tổ chức, đoàn thể, chính quyền và pháp luật, thậm chí ảnh hưởng đến cả quyền lợi của địa phương, của đất nước trong mối quan hệ giao tiếp, đối ngoại. Cho nên có thể nói: loại trừ những lời nói dối, lời nói lưỡi hai chiều, lời nói thêu dệt thì toàn bộ những khẩu nghiệp gây nên đều xuất phát từ những lời nói thô ác hay ác độc, mà ở phạm vi nhẹ hơn là những lời nói thiếu chín chắn, thiếu khôn khéo, thiếu suy nghĩ, thiếu lịch sự.

Trong phần này, ta lần lượt xem xét một cách rộng rãi những nghiệp gây nên do lời nói hung ác trong từng mối quan hệ khác nhau trong xã hôi. Đồng thời trình bày rõ con đường mà đạo Phật chỉ ra để sửa đổi, để giải trừ khẩu nghiệp do nói lời độc ác gây ra.

1. Lời nói trong quan hệ gia đình :

Trong quan hệ gia đình, những lời nói ác khẩu có thể biểu hiện ở rất nhiều mức độ khác nhau. Trong một xã hội có nền tảng giáo dục truyền thống thì đời sống trong gia đình, việc ăn nói lễ phép có tôn ty trật tự là điều căn bản, không cho phép xuất hiện lời nói ác khẩu. Lời nói trong gia đình thể hiện trong ba quan hệ khác nhau:

Ngày xưa, trong một gia đình tứ đại đồng đường (4 đời cùng sống trong một mái nhà) rất hiếm gặp, người con 60 tuổi tóc đã bạc, nhưng mỗi khi đi ra khỏi nhà cũng phải chắp tay xin phép người cha 85 tuổi bằng những lời lễ phép: “Con xin phép Thầy con đi có việc” và khi về cũng phải khoanh tay chào: “Thưa Thầy, con đã về ạ”.

Ngược lại, trong thái độ và lời ăn tiếng nói của người cha hoặc người mẹ đối với con cái cũng phải có chính pháp, cũng phải theo đạo lý cha con. Người cha không nên gây những cảnh và những lời nói nạt nộ đối với con cái. Những điều đó sẽ góp phần làm cho cha con xa nhau, không thông cảm hết với nhau. Đối với người mẹ thì lời nói với con cháu lại càng phải chú trọng. Lời nói của người mẹ đối với các con và cả các cháu luôn luôn phải là lời nói khuyên bảo ngọt ngào, dễ nghe, không nên nói những lời nói mạt sát, nhục mạ con cháu, mắng nhiếc con cháu. . Nhưng đôi khi, cha mẹ cũng cần phải dùng những lời cứng rắn, nghiêm cấm khắt khe, không bao che, để khuyên dạy cho con nên người. Như vậy đó cũng là một dạng khác của ái ngữ, thực hiện với tâm từ bi của bậc Bồ tát. Người mẹ không nên xưng hô “mày, tao” đối với con cháu và ngay cả đối với những người thân khác trong gia đình, kể cả đối với người giúp việc. Trong cách xưng hô cũng cần phải chọn những từ thích hợp, gây được thiện cảm cho người nghe. Việc đó làm tôn cái giá trị văn hóa và nền nếp giáo dục cao đẹp trong một gia đình.

– Trong quan hệ anh em: Ca dao tục ngữ có câu: Anh em như thể tay chân. Cái chân và cái tay là những bộ phận không thể tách rời của con người. Cùng một cha mẹ đẻ ra, cùng sống trong một gia đình, cùng hưởng một nền giáo dục dạy dỗ từ cha mẹ, thì anh em phải biết thương yêu nhau, đùm bọc lấy nhau không phải chỉ ở hành động, ý nghĩ mà phải bằng cả lời nói thường ngày. Các cụ ta xưa đã có câu: Kim chỉ có đầu, có nghĩa rằng trong một nhà anh em phải có người trước người sau. Người em tuyệt đối không được có những lời nói hỗn xược đối với anh, phải thưa gửi hẳn hoi, càng không được “mày tao chi tớ”. Người anh cũng không được nặng lời với em khi em có lỗi, mà phải bằng tấm lòng thương cảm, từ bi nhắc nhở em, có như thế mới thu phục được lòng tin yêu mến phục của người em. Lớn lên khi có gia đình, vợ con thì quan hệ anh em càng phải bền chặt tôn trọng tình cảm và quyền lợi của nhau, tuyệt đối tránh những lời nói không tốt của vợ con làm ảnh hưởng đến quan hệ anh em vốn tốt đẹp trong gia đình.

Tiếc thay, trong xã hội hiện đại hiện nay, do ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai và nhiều nhân tố xã hội khác, đã có rất nhiều chuyện đau lòng sảy ra giữa anh em trong một nhà trong việc tranh giành quyền lợi, nhất là trong việc thừa kế hoặc phân chia gia tài của cha mẹ đã làm cho trong quan hệ anh em không những có những lời nói ác độc mà còn dẫn đến những hành xử không theo đạo lý, thậm chí đi đến con đường vi phạm pháp luật.

Vì thế ngay khi còn trẻ, người con trong gia đình cần phải tìm đến giáo lý của đạo Phật để tu tập, tự bồi dưỡng cho mình những điều dạy bảo của Đức Phật sống theo chính pháp, ăn nói theo ái ngữ và hành xử theo tứ vô lượng tâm. Còn trẻ, những người con trong gia đình nên theo gương bố mẹ là Phật tử tu tập theo thiền định để tăng cường trí tuệ tiếp thu nhanh giáo lý Phật đà.

– Trong quan hệ vợ chồng. Đây là mối quan hệ cơ bản nhất, bền chặt nhất cần phải có trong một gia đình. Gia đình mà đứng đầu là cha mẹ, vợ chồng là tế bào của xã hội. Gia đình không vững thì xã hội dễ bị đảo điên. Muốn gia đình bền vững thì quan hệ vợ chồng là mấu chốt, là nền tảng của sự bền vững ấy. Trong một xã hội có nền giáo dục truyền thống tốt đẹp thì đạo lý vợ chồng được tôn thờ, được giữ gìn thiêng liêng. Do đặc tính tự nhiên của tạo hóa, người chồng cũng như người vợ có những chức năng riêng, nhưng tất cả đều trong mối quan hệ bình đẳng thương yêu lẫn nhau, vẹn tình, vẹn nghĩa. Vì vậy không phải chỉ trong các mối quan hệ hành động thân, khẩu, ý đều phải có sự thống nhất mà trong đời sống hàng ngày, lời ăn tiếng nói là điều rất quan trọng trong đối xử của đạo lý vợ chồng. Một cặp vợ chồng hạnh phúc hầu như không bao giờ to tiếng với nhau, do đó càng không thể có những lời nói hung ác với nhau. Lời nói của những cặp vợ chồng hạnh phúc là những lời nói trong chính ngữ, trong ái ngữ, luôn luôn êm dịu, nhẹ nhàng, ngọt ngào, ấm áp, những lời nói dễ thương, luôn làm mát dịu trong tâm hồn người vợ hoặc người chồng khi nghe nói. Trong nội dung lời nói luôn có sự tôn trọng lẫn nhau, không thể có tính chất sai bảo, ban bố, ra lệnh kể cả hai phía. Như vậy về nội dung lời nói cũng như sắc thái giọng nói, thái độ khi nói không thể gắt gỏng, thô lỗ, cục cằn, ra lệnh, bới móc, chua chát, đay nghiến. Đôi khi, vợ chồng có ý kiến khác nhau, họ biết nói những lời nói nhẹ nhàng, vỗ về, xoa dịu, an ủi để đưa đến sự thông cảm gần nhau. Hoặc khi cần, họ biết im lặng để một lúc khác lại nói với những lời nói chân thành và êm dịu thì những mâu thuẫn dễ dàng được gỡ bỏ. Những cặp vợ chồng hạnh phúc là những người hoặc một bên hoặc cả hai bên hiểu thấu lẽ vô thường, lý vô ngã, nghiệp lực và luật nhân quả. Họ biết dẹp cái “Tôi”, cái “bản ngã” xuống, họ biết diệt trừ tính kiêu căng, tự mãn, tự cao, biết tôn trong mọi người xung quanh, biết nhận ra rằng mọi người xung quanh hơn mình. Họ biết diệt trừ tính nóng nảy sân hận không phải chỉ vì hạnh phúc gia đình mà còn vì chúng sinh. Và họ biết mở rộng lòng từ bi hỷ xả, nên trong lời ăn tiếng nói của họ sẽ luôn luôn đạt được ái ngữ, đưa đến hạnh phúc trong tình nghĩa vợ chồng và đưa đến sự yêu mến, quý trọng và nể phục của những người xung quanh.

Tiếc thay, trong xã hội ta hiện nay, do sự suy thoái đạo đức trầm trọng, do ảnh hưởng văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa cá nhân vị kỷ mà không ít vợ chồng trong gia đình phạm phải những điều không nên có và trái với đạo lý làm người, làm vợ, làm chồng, trái với những điều răn dạy của Đức Phật. Có những người chồng luôn mang tính gia trưởng trong dòng máu, trong đầu óc, họ không được tiếp thu nền giáo dục truyền thống tốt đẹp của cha ông ta xưa, nên họ sống thiếu văn hóa mặc dù ngoài đời họ là người đỗ đạt, ông nọ ông kia, nhưng trong người họ lại mang đủ tật xấu như tham, sân, si, mạn, nghi, nên cung cách đối xử với vợ con quá nặng nề, gây ra nhiều mâu thuẫn trong gia đình. Có những ông chồng mắng nhiếc vợ, lăng nhục vợ một cách thậm tệ bằng những lời nói như hàng tôm hàng cá, những lời nói của những kẻ đầu đường xó chợ, thậm chí những lời nói độc ác như nói với kẻ thù, những lời nói bạo hành làm tan nát tâm hồn và tình cảm người vợ. Những người chồng đó không biết rằng họ đang tự bôi nhọ mình, tự hạ thấp nhân cách của mình và tệ hơn là họ đang làm hư hỏng con cái của mình và tự hủy hoại hạnh phúc gia đình của mình.

Bên cạnh đó lại cũng có những bà vợ quá đáng, những bà vợ lăng loàn. Có thể nói đó là những bà vợ đè nén áp bức người chồng hiền lành tử tế bằng những lời nói luôn luôn nặng nề khó chịu. Hình như ở những những người phụ nữ đó, họ mắc một cái tật bẩm sinh, hễ cứ mở miệng ra là nói những lời nói không thiện cảm, khó nghe, gây khó chịu cho người khác, thậm chí nói những lời nói hung ác, độc địa. Những người phụ nữ như thế thì ngay trong đời sống vợ chồng, trong lời ăn tiếng nói trong gia đình, đối với chồng và con cái, thậm chí đôi khi đối với cha mẹ, họ cũng không kìm hãm được cái tính cách ăn nói như vậy. Nói với chồng, thay bằng những lời nói êm dịu của người vợ đầu gối tay ấp, họ lại nói bằng giọng nói cứng nhắc thô bạo thậm chí cao đạo, trịch thượng như lời nói của kẻ coi thường chồng, làm cho người chồng nghe luôn luôn ở trạng thái không thoải mái, thậm chí căng thẳng mỗi khi nghe những lời nói nặng nề của vợ. Những người phụ nữ ấy, khi nói với con cái cũng không có được những lời nói từ bi, thương yêu con cái mà luôn luôn thiếu mềm dẻo, dịu dàng, luôn luôn dằn giọng cứng nhắc thậm chỉ cứ mở miệng ra nói với con là nói những lời nói cục cằn, chửi bới. Lại có những người phụ nữ, hay nói khác đi là có những người vợ, do một hoàn cảnh nào đó, được xã hội coi trọng vì họ đảm đương một chức vụ hoặc có một công sức đóng góp nào đó cho xã hội. Những người phụ nữ ấy thường hay mắc vào vấn đề đạo đức, họ thường mắc vào cái tội coi thường chồng, nên trong quan hệ vợ chồng không được tốt đẹp, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Sở dĩ như thế vì trong đầu óc của những loại phụ nữ như thế, họ luôn luôn coi họ là trên hết trong gia đình, họ tự coi họ là người quyết định vận mệnh gia đình, họ đặt cái “Tôi” của họ lên trên tất cả. Với những người vợ như thế, họ chỉ tự làm hại mình, tự làm tổn thương hạnh phúc gia đình mình, tự gây ra sự xa cách với chồng, với con cái và với cả anh em gần xa, hàng xóm láng giềng nữa. Có thể trong một vài trường hợp nào đó, chồng con, anh em, láng giềng đã nói, đã góp ý để sửa đổi, nhưng không được, nên đành bỏ qua mà coi như nghiệp báo đã an bài. Những lời nói và cách ăn nói như vậy có thể thay đổi được không? Nếu thấu hiểu giáo lý Đức Phật dạy thì có thể thay đổi để trở về với việc nói một cách chính ngữ, đúng đạo lý, chứ không thể nói rằng đó là thói quen từ bé không thể thay đổ được.

Con người ta sống trong xã hội, luôn luôn phải tiếp xúc với mọi sự vật, mọi hiện tượng và mọi chúng sinh trong đó có con người. Sự tiếp xúc ấy được thông qua bằng hành động, cử chỉ, bằng ý nghĩ và nhất là bằng ngôn ngữ (ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói) trong đó ngôn ngữ nói là tối quan trọng mà ta cần phải tu tập. Sở dĩ thế, vì với ngôn ngữ viết, khi viết ra một vấn đề gì, một thông tin gì, hay một tư tưởng nào đó, người viết có đầy đủ thời gian để suy nghĩ, đắn đo, lựa chọn mới viết ra những lời viết đó. Còn khi thực hiện ngôn ngữ nói (tức là khi phát biểu hoặc khi nói, trao đổi, mạn đàm) người nói không có đủ thởi gian suy nghĩ lâu. Khi thoáng có tư duy trong đầu óc, người nói thực hiện ngay bằng miệng, băng lời nói. Vì vậy tu tập thực hành khẩu nghiệp trong giao tiếp xã hội là tối cần thiết.

Quan hệ xã hội nói chung là các quan hệ giao lưu giữa bạn bè, hàng xóm, láng giềng, quan hệ làm ăn, buôn bán, quan hệ chủ tớ, quan hệ giao lưu với các tổ chức, đoàn thể, chính quyền v.v…Trong mối quan hệ đó, có khi chỉ cần lỡ một lời nói mà làm hỏng việc lớn. Có khi chỉ cần lỡ một lời nói mà bị vạ lây, bị kiện tụng, thậm chí, bị tù tội, chỉ vì người nghe không vừa tai, cho nên đặt điều vu cáo. Tai họa xảy đến, thường do lời nói gây nên tác hại. Trong cuộc sống thường ngày, do lòng tham (tài, danh, sắc, thực, thùy), thì ngoài danh và lợi, con người thường hay, tranh chấp với nhau chỉ vì lời nói. Tục ngữ có câu: Con chim tức nhau tiếng hót. Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới, tranh chấp cãi vã. Những lời nói đường mật ngọt ngào đôi khi dẫn dắt con người ta đến cạm bẫy không ngờ, đến chỗ tan nát hạnh phúc gia đình, đến chỗ thân bại danh liệt, đến chỗ khuynh gia bại sản, tiêu tan sự nghiệp, có khi chết chẳng biết vì đâu! Trong cuộc sống có những hạng người khi mở miệng nói, dù có nói nhiều, cũng không ai tin, cũng không ai nghe. Có câu chuyện một con cú vo sửa soạn dọn tổ, dời sang nơi khác. Con chim bồ câu, thấy vậy hỏi: Chẳng hay chị định dọn tổ đi đâu? Cú vọ đáp rằng: Con người ở đây, ác quá, cứ hễ thấy tôi đậu ở nơi đâu, họ liền ném đá hoặc lấy gậy đuổi đi. Tôi không chịu nổi phải dọn tổ đi sang bên kia, ở đó dân họ hiền lành, không như ở đây. Bồ câu bèn nói: Chị đừng giận, tôi nói thật, nếu chị không thay đổi tiếng kêu ghê rợn, đinh tai nhức óc, làm người nghe khó chịu thì dù chị đến đâu, chị cũng nhận được sự đối xử bạc đãi như thế!

Cổ nhân có câu: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa khó đuổi theo kịp. Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non. Có những lời nói như vậy, nhưng thực không phải vậy. Sửa đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã sửa đổi được tâm tánh, giảm bớt khẩu nghiệp.

Trong cuộc sống, ngoài những lời nói trong các quan hệ giao lưu bình thường giữa người với người, còn có những lời nói của những người có trách nhiệm với vận mệnh của một cá nhân, một tập thể, một địa phương hoặc với cả đất nước. Những lời nói của những người như thế cũng phải có chính pháp mới đạt được thành tựu như mong muốn, ngược lại những lời nói của họ không đúng đắn hoặc không theo chính pháp có thể gây ra nhiều hệ lụy khác nhau, ví dụ như lời nói của một vị bác sĩ cứu người, của một vị luật sư bảo vệ thân chủ, của một nhà ngoại giao trên bàn đàm phán v.v…Một vị bác sĩ khéo lựa lời nói, khuyến khích, an ủi, động viên làm dịu nỗi đau người bệnh, làm cho bệnh nhân yên tâm điều trị, sớm được bình phục sẽ giúp cho việc cứu được cuộc sống của bệnh nhân khỏi bệnh tật. Ngược lại, nếu vị bác sĩ đó có những lời nói vô ý, không chọn lọc, không xuất phát từ tâm từ bi, có thể làm cho người bệnh bị kích động, làm cho bệnh tình thêm trầm trọng, có thể gây nên tử vong cho người bệnh. Lời nói của một vị luật sư tranh tụng trước tòa án để bảo vệ thân chủ của mình cũng rất quan trọng. Những lời nói đó có sức mạnh lan tỏa một cách hợp tình, hợp lý, có sức thuyết phục có thể cứu được người vô tội không mắc vào vòng lao lý do bị thù hằn, bị vu khống, bị bày đặt và cũng có thể làm cho người có tội nhẹ bớt đi phần nào theo đúng thực trạng. Lời nói khôn khéo, mềm dẻo, có trí tuệ của nhà ngoại giao, hoặc của các sứ giả, có thể làm khuất phục người đối thoại hay kẻ thù ngồi trên bàn đàm phán, có thể đem lại hòa bình cho đất nước, hoặc có thể gây chiến tranh, binh lửa lan tràn, khắp cả mọi nơi. Nhiều khi lời nói, của một con người có sức mạnh như cả một đoàn quân đem lại thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, đem lại hòa bình cho đất nước, cho dân tộc và cho nhân loại.

Với tất cả những lời nói của những thành viên trong gia đình (cha mẹ, vợ chồng, anh em), những lời nói của con người trong quan hệ giao tiếp trong xã hội và kể cả những lời nói của những người có trách nhiệm không hợp và không đúng theo đạo lý, không theo chính pháp, đều có những nguyên nhân của nó. Trong các bộ kinh Đức Phật đã chỉ ra rằng con người không thực hành thập thiện nghiệp (trong đó có 4 điều lành về khẩu ngữ), đều do ba độc tham sân si mà ra, đều do ngũ dục, lục trần gây nên. Nếu chúng sinh nào diệt trừ được những cái độc đó, hẳn sẽ thực hành được bốn điều lành về khẩu nghiệp trong Thập Thiện Nghiệp Đạo. Để đạt những lời Phật dạy, người Phật tử phải nghiêm chỉnh thực hành giới, định, tuệ. Phải triệt để giữ gìn giới cấm, phải luôn luôn thực hành thiền định, quán chiếu tứ niệm xứ để tu dưỡng trí tuệ nhằm hiểu thấu và thực hành những giáo lý về Chính ngữ trong Bát chính đạo (Tám con đường chân chính trong Tứ Diệu Đế), về Ái ngữ trong Tứ Nhiếp pháp, phải bồi đắp tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả trong Tứ Vô lượng tâm, về Y nghĩa bất y ngữ trong Tứ Y pháp v.v..

Người thực hành chính ngữ phải luôn nhận thức đầy đủ về sức mạnh phá hoại cũng như xây dựng của lời nói, do đó chỉ nói ra những lời nói mang lại niềm vui, sự đoàn kết gắn bó, yêu thương và hiểu biết lẫn nhau, không nói ra lời nói gây đau khổ cho người khác hoặc dẫn đến sự chia rẽ, gây hận thù hay hiểu lầm giữa mọi người.

Thực hành ái ngữ tức là tăng trưởng tâm Phật, tâm từ bi hỷ xả, dẹp được tâm ma như tham lam, sân hận, đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm, tật đố, ngạo mạn, hơn thua, khinh người. Thực hành được ái ngữ tức là tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi.

Đó là con đường để giải trừ khẩu nghiệp, đó là pháp tu mà ta cần phải thực hiện hàng ngày để sửa mình, để thay đổi con người của chính mình, đi theo con đường giác ngộ, giải thoát mà Đức Phật đã đề ra. Hiểu được như vậy, người Phật tử tại gia cần tinh tấn tu tập để nắm được giáo lý cơ bản của đạo Phật, hiểu được lẽ vô thường, vô ngã, lý nhân duyên, luật nhân quả. Và muốn có công đức thực sự, muốn trở thành người tốt, trở thành Phật tử thuần thành, có bồ đề tâm kiên cố, có trí tuệ sáng suốt, mau chóng đạt được giải thoát, giác ngộ, cần phải tìm hiểu và học tập để thấm nhuần giáo lý của Đức Phật dạy là chính, chứ không phải chỉ cứ đi chùa nhiều, cúng tiến thật nhiều, lễ lạy thật nhiều, tụng kinh, niệm Phật thật nhiều, làm phước thật nhiều là đủ, tuy rằng những điều đó là rất cần phải có trên con đường tinh tấn tu hành.

Kinh Pháp cú (trong Tiểu Bộ Kinh) tập hợp 423 bài kệ do đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau, trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh Pháp của Ngài

Phạm Đình Nhân

Nghiệp Chướng Là Gì? Giải Trừ Nghiệp Chướng Theo Lời Phật Dạy

1. Nghiệp chướng là gì?

Để biết cách giải trừ nghiệp chướng hiệu quả, trước hết cần hiểu nghiệp chướng là gì và vì sao phải tìm cách hóa giải.

Nghiệp chướng là từ xuất phát từ đạo Phật và được xuất hiện trong bài giảng kinh của Phật giáo. Trong đó nghiệp chướng là từ được ghép từ “nghiệp” và từ “chướng”.

Ở đây, nghiệp có nghĩa là khởi đầu, được tạo ra từ chính những suy nghĩ, tư tưởng, lời nói, hành động… của chúng ta. Nghiệp từ tâm gọi là “ý nghiệp”, nghiệp phát ra từ miệng gọi là “khẩu nghiêp”, nghiệp từ hành động gọi là “thân nghiệp”.

Sau khi tạo nghiệp gây ra kết quả, hậu quả đó cũng được gọi là nghiệp hay nghiệp báo. Nghiệp đã phát sinh có kết quả sẽ sinh ra chướng ngại về sau.

Dù từ “chướng” đứng sau nhưng theo nghĩa thì chướng phải có trước, có chướng tứ, có sự tác động từ bên ngoài thì con người ta mới tạo nghiệp.

Nghiệp chướng ở đây không phải là nói về sự thất bại hay việc xấu mà là sự tác động từ bên ngoài tạo ra sự xuất hiện và hình thành của hành động sẽ gây ra hậu quả ảnh hưởng về sau.

Vì thế nghiệp chướng cũng có thể là điều thiện cũng có thể là điều xấu.

Điều thiện được gọi là Thiện nghiệp: Thiện nghiệp có 3 đường là Trời, Người và Atula; Điều xấu có 3 đường là Địa ngục, Ác quỷ và Súc sinh. Cho nên có thể nói rằng, dù là điều thiện hay điều ác đều tạo ra nghiệp.

2. Vì sao cần giải trừ nghiệp chướng?

– Theo giáo lý nhà Phật, việc tiêu giải trừ nghiệp sẽ làm cho tâm tính con người được trong sạch, trừ cho hết bụi bặm, tẩy cho hết tội lỗi ở trong đời hiện tại và đồng thời cũng tiêu trừ những tội ác trong những đời quá khứ.

– Tiêu giải nghiệp chướng còn để tìm cách phát triển những đức hạnh cao cả, noi theo những gương mẫu sáng suốt của các bậc Thánh hiền.

– Khi đã giải được nghiệp chướng, lòng sẽ thấy thanh thản, dứt được tội, phước cũng sinh ra, tâm hồn được an yên vui sống.

3. Lời Phật dạy về giải trừ nghiệp chướng

Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong sạch. Phật thường dạy: “Phàm còn xuống lên ba cõi, lăn lộn trong sáu đường, thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi”.

Thật thế, cõi đời này đã được gọi là cõi trần, thì làm sao trong sạch được?

Bụi đời đã lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, vào trong buồng gan, lá phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó làm cho chúng ta đục lòng, không thấy được chân tâm.

Nếu chúng ta muốn sống mãi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm mình trong tội lỗi, thì không nói làm gì.

– Giải oan kết với người oán hận

Là người sống ở trên đời, kết không ít oan nghiệt, oan gia chủ nợ không thiếu, làm sao để tiêu tai giải nạn, cởi bỏ những nút thắt này? Phật dạy rằng, bí quyết trừ nghiệp chính là phải giải oán, mở kết. Siêu sinh cởi bỏ, buông lòng mình xuống là phương pháp tốt nhất để xóa bỏ nghiệp chướng.

Nhưng Phật chỉ giải được duyên trời định, không mở được duyên người kết. Bái Phật, kính Phật, hướng Phật là một cách để lòng mình thanh thản, hướng tới điều lành, biết rũ bỏ tham, sân si, tìm đến thanh tịnh. Cách này chỉ giúp được người có vướng mắc trong lòng, chỉ ra đường ngay lối đúng để đối nhân xử thế, tự mình buông bỏ cho người khác, ắt người khác sẽ buông bỏ cho mình.

Còn oán duyên người kết phải tự mình dùng thiện duyên để giải. Tìm đến cửa Phật chỉ là tìm đến chỗ dựa và đạo lý, chỉ đường mà thôi, Phật không giải được oán thù, chỉ bày cách tốt để tan oán tan thù mà thôi.

Người mà tâm tà tư niệm, muốn tiêu tai giải nạn nhưng vẫn làm việc sai trái thì dù đọc bao nhiêu kinh, bái bao nhiêu Phật cũng không thể thoát được.

Đối với người oán hận ta, hãy quan tâm cùng trợ giúp, oan kết tự nhiên hóa giải. Ta giúp người khác vô điều kiện, không cầu danh cũng chẳng cầu lợi thì tự khắc tích phúc cho bản thân.

Học Phật có thể nhẫn nhục, có thể bao dung thì nghiệp chướng tan biến như mây khói. Người oán hận ta thì là người tự tạo nghiệp chướng. Còn ta đối với oán hận của người mà bình tĩnh và mở lòng thì tránh được oán nghiệp.

Đừng bỏ lỡ: Phật dạy cách đối phó với kẻ tiểu nhân: Chỉ cần nhẩm 3 điều này!

– Sám hối, niệm Phật

Nhiều người tin rằng, muốn hoá giải nghiệp chướng chỉ còn cách ăn chay, niệm Phật một cách thành tâm. Nhưng một số người mê muội cho rằng cứ sám hối thật nhiều thì nghiệp chướng sẽ tiêu tan nên chẳng màng xác thân hao mòn ngày đêm tụng niệm mà nghiệp chướng vẫn còn nguyên.

Sở dĩ có những người dù có sám hối nhiều bao nhiêu nhưng nghiệp vẫn chẳng hề tiêu tan là bởi vì nghiệp chướng của người này quá nhiều.

Do đó công đức niệm Phật của một ngày đêm dù là giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều mà vẫn chưa dứt sạch. Cho nên cần phải mỗi ngày đến niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt thêm nghiệp chướng.

Trong tâm trí luôn khởi tâm động niệm, chỉ nghĩ A Di Ðà Phật, miệng chỉ niệm A Di Ðà Phật, thân chỉ lạy A Di Ðà Phật, tam nghiệp đều đặt ở A Di Ðà Phật, nghiệp chướng tự nhiên sẽ không xuất hiện, tội chướng cũng tiêu trừ.

– Hành thiện tích đức

Nhưng nếu chỉ sám hối, niệm Phật bằng miệng nhưng tay chân vẫn hành động sai trái, tâm vẫn sinh ra những suy nghĩ hại người thì rất khó mà tiêu trừ được nghiệp chướng như mong muốn.

Sự sám hối của bạn sẽ thực tế hơn rất nhiều, nghiệp chướng của sẽ tan biến nhanh hơn rất nhiều nếu được đền chuộc bằng những việc làm từ thiện. Càng làm nhiều, bạn sẽ càng thấy hiệu quả rõ rệt. Bởi tích đức hành thiện chính là yếu tố phong thủy mạnh nhất để thay đổi vận mệnh!

Có rất nhiều việc thiện mà bạn có thể làm để tiêu trừ bớt nghiệp cho bản thân, trong đó có việc cứu giúp người. Cứu người thoát nạn luôn là công đức hàng đầu, được người người ca ngợi, được Thánh thần tán thán bất kể là nền Văn hóa nào hay Tôn giáo nào.

Và không có cách cứu người nào dễ dàng hơn là hiến máu nhân đạo.

“Một giọt máu cho đi, một cuộc đời ở lại”, thông điệp ý nghĩa được tuyên truyền rộng rãi ở bất cứ nơi nào, chỉ cần bạn đủ tiêu chuẩn hiến máu là bạn đã có thể bắt đầu hiến máu để cứu giúp những con người đang vật lộn với lưỡi hái tử thần, giành lại sự sống.

Và cứ sau 3 đến 6 tháng, bạn lại có thể lặp lại nghĩa cử cao đẹp này khi cơ thể hoàn toàn hồi phục.

Tất nhiên, nếu bạn có những cơ hội khác, những cách khác thì đều không nên bỏ qua. Bạn có thể chọn một nghìn lẻ một cách khác để làm từ thiện, miễn là việc đó đem lại an vui cho mọi người, cho muôn loài như: xây cầu đắp đường, xây chùa đúc tượng, chữa bệnh phát thuốc, trồng cây gây rừng, dẹp trừ tội phạm…

Quan trọng nhất là nghĩ điều thiện lương, làm điều thiện lương, truyền bá điều thiện lương để tiêu tai giải nạn. Lấy lòng thiện đối đãi với oán thù, lấy bao dung khoan nhượng với đối thủ, lấy chân thành hối lỗi mà thành kính với nạn nhân.

Chuyện ác hôm qua phải được bù bằng việc lành hôm nay. Lấy oán báo oán, oán càng chồng chất, lấy ân báo oán thì trăm sự đều qua. Không phải cho người, không phải vì đời, chỉ là cho bản thân thanh thản.

– Phóng sinh

Dù không bằng so với việc cứu người, nhưng cứu sống những con vật tội nghiệp khỏi lưỡi dao đồ tể, khỏi cái chết đau đớn cũng sẽ đem lại cho bạn phước báo lớn lao. Phóng sinh một lần, phúc báo đời đời, nghiệp lành khai nở.

Nếu bạn có một khoản tiền dư không dùng đến, hãy mạnh dạn mở lòng từ bi trích ra một ít. Hãy mua những con vật sắp bị giết thịt, rồi thả chúng vào một chốn an toàn. Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi vì điều đó.

Một điều cần lưu ý, bạn nên ưu tiên những loài vật theo thứ tự sau để phóng sinh nếu bạn không đủ sức để phóng sinh tất cả:

+ Chó, trâu bò, ngựa: Đây là những con vật mang đậm tình nghĩa với con người. Dù là động vật, nhưng chúng có tâm tư tình cảm gần giống người nhất. Phóng sinh chúng là một việc làm thực sự ý nghĩa.

+ Rùa, ba ba, lươn: Mặc dù là động vật máu lạnh, nhưng tâm linh của chúng rất cao. Những người phóng sinh chúng thường gặp những may mắn kì lạ.

+ Những động vật có sức sống mạnh mẽ như cá trê, cá lóc, ếch nhái…

+ Những con vật sắp đẻ. Điều này thật dễ hiểu, vì chỉ cần cứu một con là cứu được cả đàn mẹ lẫn con.

– Sống bao dung

Nghiệp chướng căn bản là phiền não, mà nguyên nhân không gì khác ngoài tư lợi, ham danh ham lợi nên tham, sân, si, vướng phải dục trần, tự gây rắc rối, chính là tạo ác nghiệp.

Vượt qua phiền não của bản thân chính là cách giải thoát ác nghiệp. Tâm càng thanh tịnh thì nghiệp ác càng tiêu tan, tâm càng phiền não thì nghiệp ác càng tích tụ.

Vì thế, bao dung với người khác cũng là bao dung với chính mình, tha thứ cho người khác cũng chính là tha thứ cho bản thân, là phương pháp tạo nghiệp lành tốt nhất, đơn giản nhất. Khi nghiệp lành sinh ra, nghiệp chướng hay ác nghiệp cũng tự tiêu tan. Bạn có biết: Khoan dung độ lượng mang lại phúc báo suốt đời

Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, cách tốt nhất để giải trừ nghiệp chướng chính là làm những việc tốt lành và xa lánh cái xấu, cái ác để cuộc sống luôn luôn an vui và hạnh phúc.

4. Cần yếu tố nào để hóa giải nghiệp chướng hiệu quả?

Theo lời Phật dạy, nếu là nghiệp thiện thì đó là điều tốt, sẽ sinh ra sự tốt lành sau này; nhưng nếu là ác nghiệp thì phải thực hiện các cách hóa giải nghiệp chướng để không hệ lụy sau này.

Giáo lý nhà Phật cho rằng, cách hóa giải nghiệp chướng tốt nhất là phải luôn có TUỆ và ĐỊNH.

– Tuệ là trí tuệ, phải có trí tuệ sáng suốt, nghĩ trước nghĩ sau trước khi làm một việc, nói một câu.

– Định là kiên định, không để ngoại vật, ngoại cảnh tác động làm ảnh hưởng tới suy nghĩ và hành động của mình.

Chỉ có người có đủ định và tuệ mới có thể vượt khỏi luân hồi lục đạo, giải quyết vấn đề một cách quyết đoán và chính xác.

Vì thế, Phật giáo thường dạy chúng ta nhất nhất phải làm việc tốt không làm việc xấu để tránh tạo ác nghiệp sau này. Và hơn hết, chúng ta làm điều thiện nghiệp nhưng không chấp nhặt chuyện mình đã làm để so đo thì sẽ không tạo ra nghiệp chướng.

Vì thế trong đời sống hàng ngày, hành động, lời nói hay ý nghĩ đều phải tuân theo “giới, định, tuệ”. Đối với ác nghiệp từ người khác không chấp nhặt so đo, phải phân tích suy nghĩ tìm hiểu kỹ lưỡng từ đó có cách phân giải rõ ràng.

Như thế mới là sự thành công, mĩ mãn không tạo ác nghiệp, giải trừ nghiệp chướng tận gốc.

Sâu Đục Thân Bướm Hai Chấm Và 9 Điều Cần Biết Để Diệt Trừ

Ở miền Bắc mỗi năm lại hứng chịu từ 6 đến 7 đợt sâu đục thân bướm hai chấm, mà nguy hiểm nhất chính là có hai giai đoạn là thứ 2 và thứ 5 chẳng may trùng với đợt lúa trổ.

Nếu không ngừa kịp thời sẽ ảnh hưởng nặng nề đến năng suất lúa năm đó. Vậy làm cách nào để tiêu diệt cũng như phòng ngừa chúng.

1. Tìm hiểu về sâu đục thân bướm hai chấm

Danh pháp của chúng là Scirpophaga incertulas Walker. Sâu đục thân bướm hai chấm nằm trong họ Pyralidae thuộc bộ Lepidoptera

– Trứng được đẻ thành từng ổ hình bầu dục. Bên trên có một lớp lông ngắn màu vàng nhạt phủ lấy, phần giữa hơi vòm lên. Mới đẻ nó có màu trắng, lớn dần thì màu vàng khi chuyển màu đen là sắp nở.

– Những con sâu non sẽ có thân trắng như sữa, đầu màu vàng pha nâu. Chân bụng có thể coi là không có vì chúng phát triển kém. Nhưng móc bàn chân lajic ó tới 28 cái được xếp giống hình elip.

Những con cái thì chân sẽ dài quá đốt thứ 5 ở bụng. CÒn con đực thì tới tận đốt thứ 8. Khi mới chuyển nhộng chúng cũng có màu trắng sữa, sau đó thì dần ngả vàng nhạt.

+ Con đực trưởng thành thì có cánh và đầu ngực màu nâu vàng, có dạng tam giác. Mỗi cánh ở giữa lại có 1 chấm đen. Từ đầu cánh đến mép có một nét xiên màu nâu đen. Bên ngoài mép sẽ có 9 chấm đen nhỏ xinh. Đây là giống mắt kép và kích thước mắt lớn.

+ Con cái trưởng thành có màu vàng trắng hoặc vàng nhạt, gần cuối bụng có chùm lông tơ nhỏ màu vàng nhạt.Con này thì chỉ cánh trước ở giữa mới có chấm đen.

1.2 Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại của sâu đục thân bướm hai chấm

Mỗi con sâu bướm sẽ trải qua vòng đời từ 54 đến 66 ngày. Ở nhiệt độ từ 19 đến 25 độ C thì trứng kéo dài 8 đến 13 ngày, sau đó sâu non sinh trưởng 36 đến 39 ngày. Chuyển sang nhộng chỉ còn 12 đến 16 ngày và khi đã trưởng thành có cánh đến khi đẻ trứng chỉ còn 3 ngày.

Những con ngài của sâu bướm rất thích ánh sáng mạnh, chúng sẽ bay được trong đêm và ngay trong đêm đó giao phối, sang đêm hôm sau có thể đẻ trứng. Ban ngày chúng tìm chỗ nấp, ban đêm mới ra hoạt động, nếu có động tĩnh sẽ tránh sang cây khác. Thời gian hoạt động của ngài đực và cái cũng khác nhau.

Từ 19 đến 20h là thời gian hoạt động của ngài cái, từ 23 đến 1 giờ của ngài đực. Mỗi ngày cái đẻ từ 1 đến 5 ổ mỗi ổ trứng có từ 100 đến 150 trứng. Mỗi năm chúng sẽ sinh ối chừng 6 đến 7 lần. Nếu nhiệt độ cao cộng với thời tiết ẩm thì chúng phát triển càng nhanh.

Thời điểm chúng gây hại mạnh nhất là chính vụ hoặc lúc xuân muộn. Nếu ở miền nam loại này gây hại quanh năm thì ở miền Bắc chỉ có mùa đông lạnh lâu ngày cùng với thời tiết khô hạn chúng sẽ sinh sôi mạnh. Loại này có ở mọi nơi trên thế giới.

1.3 Thiên địch của sâu đục thân bướm hai chấm

+ Có nhiều loại ong đã được tìm thấy để tiêu diệt sâu bướm hai chấm đục thân. Đó là ong Trichogramma japonicum Ashmead, Tetrastichus schoenobii Ferrier, Tri. chilonis Tschii, Tri. dendrolimi Mats; T. dignus Gahan hay Telenomus rowani Gahan.

+ Trong đó loại Tetrastichus có nhiều và kí sinh trên trứng sâu đục thân bướm hai chấm nhiều hơn. Loài này có nhiều khi nhiệt độ thấp trong khi các ong khác nhiệt độ ấm nóng mới có nhiều.

+ Không chỉ trứng kí sinh mới dùng thiên địch được mà kể cả sâu non cũng có thể dùng ong kí sinh tiêu diệt. Năm 2000 ở Nghệ An tìm được 14 loại thiên địch tiêu diệt loại sâu bệnh này.

2. Các cách phòng bệnh sâu đục thân bướm hai chấm

Đất trồng cần được xử lý tốt trước khi bắt đầu vụ mùa mới. Có thể xới đất, ngâm nước hay phơi ải đều được.

Dọn dẹp sạch sẽ tàn dư của vụ mùa trước. Dù là rơm rạ hay cỏ đều cần được đốt sạch hoặc xử lí sạch sẽ, tránh lưu lại tàn dư cho vụ sau.

Cân đối lượng NPK bón cho đất. Tránh dùng phân nhiều đạm trong 1 thời gian dài.

Giống nên là giống có khả năng kháng bệnh tốt cũng như chịu được bệnh tốt.

Thời vụ chính xác và khi thu hoạch nên cắt lúa sát gốc. Rơm rạ cần dọn gọn sau khi đã thu hoạch.

Dùng các phương pháp thủ công như bẫy bắt bướm, bắt ổ trứng,…

Đối với từng giai đoạn thì người ta có thể chọn thiên địch khác nhau. Thường người ta sẽ dùng các loại ong như Trichogramma japonicum Ashmead; Telenomus rowani Gahan; ri. chilonis Tschii, , Tri. dendrolimi Mats hay T. dignus Gahan. Loại cuối thì hay có ở nơi nhiệt độ thấp trong khi loại Tetrastichus schoenobii Ferrier lại là giống kí sinh có nhiều khi trời ấm nóng.

Kiểm tra lúa thường xuyên để có biện pháp điều trị kịp thời. Nếu tầm 0,3 ổ 1m2 thì bắt đầu phun với liều vừa đủ. Nhưng nơi nào mà đã nhiều hơn 1 ổ 1m2 thì xen kẽ phun hai lần. Mỗi lần cách nhau chừng 4 đến 5 ngày.

Bạn có thể dùng Sacophos 550EC, Gà nòi 95SP, Regent 800WG hay Virtako 40WG.

Các nhóm hoạt chất được dùng để điều trị sâu đục thân phổ biến hiện nay là Cartap thường có trong gà nòi 95Sp hay Patox 95SP. Đối với các loại thuốc này thì cứ 20g hòa với 12l nước, mỗi sào 2 bình khi sâu đã được 2 ngày tuổi.

Ngoài ra còn có nhóm hợp chất Chlorantraniliprole + Thiamethoxam cũng khá phổ biến. Nó thường có trong thuốc Virtako 40WG. Đặc điểm của hoạt chất cũng như thuốc này là nội hấp. Nên chỉ cần pha 1,5g cho 12l và mỗi sào phun 24l là được. Thời điểm phun sâu cũng tương tự như trên.

Cuối cùng là nhóm hợp chất Abamectin, Alpha-cypermethrin và Chlorpyrifos Ethyl có nhiều ở thuốc Sacophos 550EC. Loại này có ưu điểm là thấm sâu và hiệu quả cao nhưng độc tố mang lại cũng rất cao làm rầy nhiều ở cuối cụ. Mỗi sào cùng từ 12 đến 16l nước pha với 15ml thuốc. Thời điểm phun khi sâu đã được 1 đến 2 ngày tuổi.

Nếu thời điểm lúa trổ bông mà đúng dịp sâu cao nhất thì phun thuốc như sau. Chừng 0,2 ổ 1m2 thì phun 1 lần. Từ 1 ổ trở lên thì phun kép mỗi lần cách nhau 7 ngày.

2.4 Một số lưu ý khi phun thuốc

Thời điểm phun thuốc trừ sâu quyết định mức độ hiệu quả mà thuốc mang lại.

Thường là khi trước lúc lúa trổ bông tầm 4 đến 5 ngày. Hoặc là khi lúa đã trổ bông được khoảng 5% diện tích.

Mỗi sào Bắc Bộ phải phun đủ từ 25 đến 30 lít nước. Sau khi phun mà gặp mưa trong 4 giờ đầu thì bắt buộc phải phun lại.

Sâu đục thân bướm hai chấm mặc dù không phải là loại sâu bệnh quá nguy hiểm nhưng bạn cũng cần chú ý để phòng ngừa. Có như vậy thì cây trồng mới mang lại hiệu quả năng suất cao được.

Pega Sẽ Ra Một Mẫu Xe Máy Điện Gây Tranh Cãi Lớn

ictnews Pega sẽ ra mắt một mẫu xe máy điện mới vào ngày 11/1 tới, đúng 1 năm sau khi ra mắt Pega Newtech. CEO Pega cho biết đây sẽ là mẫu xe điện có thể gây ra nhiều tranh cãi về kiểu dáng, công nghệ.

Thông tin trong một cuộc họp báo ngắn được tổ chức vào chiều nay (20/12), ông Đoàn Ngọc Linh, CEO Pega cho biết mẫu xe điện mới của hãng sẽ chính thức ra mắt vào ngày 11/1 tới.

Không hé lộ nhiều thông tin chi tiết về sản phẩm sắp ra mắt, nhưng CEO Pega cho hay mẫu xe điện mới sẽ có chất lượng hoàn thiện tốt hơn so với mẫu xe Pega Newtech mà hãng đang bán và mức giá rất cạnh tranh. Ông Đoàn Ngọc Linh cũng cho biết, mẫu xe máy điện mới của Pega rất có thể gây ra nhiều tranh cãi về kiểu dáng và công nghệ, đồng thời chia sẻ rằng Pega tự tin về sản phẩm sắp ra mắt.

Cách đây vài ngày, hình ảnh một vài mẫu xe điện mới vừa được lan truyền trên mạng xã hội. Mẫu xe này có kích thước tương đương và kiểu dáng khá giống với các mẫu xe tay ga. Màu sắc và các chi tiết đều được thiết kế khá trẻ trung. Nhiều người dự đoán đây rất có thể là mẫu xe điện của Pega đang trong quá trình chạy thử trước khi được ra mắt tại Việt Nam.

Pega có tiền thân là hãng xe điện HKBike hoạt động khá đình đám trước đây. Sau khi đổi tên thành Pega, hãng xe vẫn lắp ráp và bán các dòng xe đạp, xe máy điện nhưng đang hướng đến dòng xe máy điện với mục tiêu cạnh tranh với các dòng xe tay ga vốn đang được ưa chuộng tại Việt Nam. Ông Đoàn Ngọc Linh, Chủ tịch kiêm CEO của Pega cũng từng có phát ngôn “gây sốc” khi tuyên bố sẽ loại bỏ xe xăng trong vòng 5 năm.

Cách đây 1 năm, Pega ra mắt mẫu xe cao cấp NewTech có giá bán 25 triệu đồng với slogan gây tranh cãi “Sát thủ xe ga”. Tuy nhiên theo vị CEO này, một số khó khăn trong việc chuyển đổi hoạt động của công ty khiến doanh số bán ra của mẫu xe không được như ky vọng.

Mẫu xe điện mới sắp ra mắt của Pega sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn khi thị trường xe máy điện đang sôi động với sự góp mặt của VinFast và hàng loạt thương hiệu ngoại như MBI, Yadea. Tất cả các sản phẩm của hãng xe này đều tập trung vào phân khúc đối đầu với dòng xe ga tầm trung, phân khúc được xem là ăn khách nhất tại Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bài viết Diệt Trừ Nghiệp Ác Do Lời Nói Gây Ra trên website Maiphuongus.net. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!